KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, THỜI ĐẠI CỦA CHIẾN THẮNG 30 THÁNG 4

Năm nay, trong những ngày hướng đến kỷ niệm Chiến thắng lịch sử vĩ đại 30/4/1975, nhân dân ta đón mừng sự kiện này với nhiều niềm vui mới. Theo báo cáo của Chính phủ, kinh tế Việt Nam năm 2018 khởi sắc trên cả ba khu vực sản xuất, cung - cầu của nền kinh tế cùng song hành phát triển.

NHẬN DIỆN VÀ NGĂN NGỪA THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG LÒNG YÊU NƯỚC ĐỂ KÍCH ĐỘNG NGƯỜI DÂN XUỐNG ĐƯỜNG BIỂU TÌNH, GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Người yêu nước chân chính là người biết sử dụng pháp luật, đạo đức, truyền thống tốt đẹp để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, đồng thời phải biết tôn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích chính đáng của người khác. Nhận diện được phương thức, thủ đoạn lợi dụng lòng yêu nước để kích động nhân dân làm việc xấu chính là nhằm đưa ra các biện pháp xử lý phù hợp, đồng thời tránh được sự lợi dụng đó để gây ra rối loạn xã hội, phức tạp tình hình.

Thông cáo Báo chí Kỳ họp 32 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương

Từ ngày 03 đến 06/12/2018 tại Hà Nội, Ủy ban kiểm tra Trung ương đã họp kỳ 32. Đồng chí Trần Cẩm Tú, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Trung ương chủ trì kỳ họp.

UBKTTW kết luận vụ AVG: Sai phạm của ông Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn là rất nghiêm trọng

UBKTTW vừa họp kỳ 26 kết luận vụ AVG có những vi phạm của Ban cán sự đảng Bộ TT-TT, ông Nguyễn Bắc Son, ông Trương Minh Tuấn, ông Phạm Đình Trọng, của Ban Thường vụ Đảng ủy Mobifone và các ông Lê Nam Trà, Cao Duy Hải là rất nghiêm trọng.

Bốn kỳ vọng thay đổi lớn về công tác cán bộ sau 4 ngày Hội nghị T.Ư 7

Sau 4 ngày làm việc, Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đã thảo luận nhiều nội dung quan trọng được dư luận đặc biệt quan tâm, trong đó có công tác cán bộ, bởi đây là vấn đề “nóng” trong tình hình hiện nay.

Chủ Nhật, 25 tháng 8, 2019

MÃI LÀ NGƯỜI ANH CẢ CỦA QUÂN ĐỘI, VỊ TƯỚNG CỦA LÒNG DÂN

Đại tướng Võ Nguyên Giáp - người cộng sản kiên trung, mẫu mực, người học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh - đã về cõi vĩnh hằng, nhưng với bộ đội, dân quân tự vệ và nhân dân Việt Nam cũng như nhiều bạn bè trên thế giới, kể cả những người từng một thời là đối thủ ở bên kia chiến tuyến, Võ Nguyên Giáp - “Anh Văn” vẫn luôn được nhắc tới với sự trân trọng đặc biệt.

MÃI LÀ NGƯỜI ANH CẢ CỦA QUÂN ĐỘI, VỊ TƯỚNG CỦA LÒNG DÂN

Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp không chỉ là một danh tướng, một “nhà chính trị đi trước nhà quân sự”, mà còn là một “cây đại thụ rợp bóng nhân văn”.
Ngày 22-12-1949, nhân kỷ niệm 5 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Trong thư, Người nêu rõ: “Quân đội ta quen gọi Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp là Anh Cả. Cách gọi thân ái ấy rất đúng với tinh thần và lịch sử của Quân đội ta…”.
Năm 2004, nhân kỷ niệm 50 năm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, khi được nhà báo Pháp D.Ba-ri phỏng vấn về chiến lược của Việt Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trả lời: “Chiến lược của chúng tôi là chiến lược hòa bình. Tôi là vị tướng của hòa bình”. Còn Tướng Bi-gia, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Pháp, trong một lần trả lời phỏng vấn báo chí vào cuối tháng 4-2004, đã thốt lên rằng: “Xin ngả mũ chào bái phục tướng Giáp!”.
Là một học trò xuất sắc và gần gũi của lãnh tụ Hồ Chí Minh, lại xuất thân từ một nhà giáo dạy sử, Võ Nguyên Giáp là một vị tướng hiểu rõ và thấm nhuần sâu sắc tư tưởng “trọng dân”, “nước lấy dân làm gốc” của các bậc tiền nhân. Yếu tố nhân dân luôn bám rễ sâu trong tư duy quân sự của ông. Ngay trong buổi đầu thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - đội quân chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, Võ Nguyên Giáp đã trực tiếp soạn thảo “Mười lời thề” cho đội, trong đó nhiều nội dung đều đề cập đến quan hệ quân-dân.
Là một người am hiểu lịch sử dân tộc, Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp hiểu rất rõ, trong dặm dài lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, các triều đại phong kiến Việt Nam đã không ít lần để mất nước, mà một trong những căn nguyên chủ yếu là đã để mất dân, mất làng xóm, xã tắc. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp thường lưu ý và nhắc nhở các mặt trận, các địa phương, thà tạm thời để mất đất, chứ nhất quyết không để mất dân. Với ông, yếu tố chính trị quần chúng là chỗ dựa không thể thiếu trong bất kỳ hoạt động quân sự nào. Trên cương vị Tổng Tư lệnh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có công lớn cùng tập thể Quân ủy Trung ương đưa quan hệ quân - dân trở thành một trong những nét đẹp truyền thống quý báu của Quân đội nhân dân Việt Nam, cũng như trong việc tạo dựng hình ảnh đẹp của Bộ đội Cụ Hồ trong lòng nhân dân.
Võ Nguyên Giáp luôn ghi nhớ, noi gương và thực hiện lời căn dặn của lãnh tụ Hồ Chí Minh: Làm cách mạng là phải “dĩ công vi thượng” (tức là phải đặt lợi ích chung lên trên hết); đồng thời, ông luôn đề cao vai trò của tập thể, phục tùng tổ chức. Điển hình, tại Mặt trận Điện Biên Phủ năm 1954, tuy là người chỉ huy cao nhất được Bác Hồ và Bộ Chính trị trao toàn quyền quyết định các vấn đề, nhưng trên cương vị Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy mặt trận, trước khi quyết định những vấn đề hệ trọng, bao giờ Đại tướng cũng đưa ra thảo luận ở tập thể Đảng ủy, Bộ chỉ huy chiến dịch, tham khảo ý kiến của Đoàn cố vấn, nhằm tạo sự đồng thuận, thống nhất cao. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, quyết định thay đổi phương châm tác chiến, từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp vừa thể hiện tư duy quân sự sắc sảo, bản lĩnh của người cầm quân, đồng thời cũng thể hiện việc quán triệt sâu sắc, chấp hành tuyệt đối ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “đánh chắc thắng”.
Thể hiện tính nhân văn, nhân nghĩa của một vị tướng “dĩ công vi thượng”, ông luôn biết đề cao vai trò của tập thể, hết sức tôn trọng ý kiến của tập thể, vì lợi ích chung và luôn tính toán kỹ đến sự hy sinh xương máu của bộ đội. Đúng 30 năm sau sự kiện này, vào tháng 5-1984, trong buổi gặp mặt truyền thống, một số cựu cán bộ chỉ huy cho rằng: “Hồi đó mà cứ đánh theo phương châm “đánh nhanh, giải quyết nhanh”, không kịp thời và kiên quyết thay đổi phương châm tác chiến như Đại tướng đã làm, thì có lẽ chúng mình đã không còn có dịp hội ngộ như hôm nay”.
Võ Nguyên Giáp là một vị tướng thương yêu bộ đội hết mực, dù người đó giữ chức vụ gì, quân hàm cao hay thấp. Với cán bộ, chiến sĩ dưới quyền, ông như người cha, người anh, người đồng chí thân thiết và gần gũi. Trước nhiều trận đánh, Đại tướng đều viết thư động viên, nhắc nhở và thăm hỏi tình hình sức khỏe của bộ đội, dân công, thanh niên xung phong… Trong điều kiện cực kỳ khó khăn, thiếu thốn tại chiến trường, Đại tướng vẫn thường xuyên quan tâm, nhắc nhở cơ quan hậu cần, lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị chăm lo sức khỏe, bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội, hết lòng thương yêu bộ đội… Viên tướng Na-va, Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương, khi nhận xét về “quan hệ cán-binh” của Việt Minh ở Mặt trận Điện Biên Phủ từng phải thốt lên: “Đã bao lần tôi phát ghen với tướng Giáp!”.
Nhà cầm quân nào cũng khát khao chiến thắng, nhất là trong các trận đánh, chiến dịch có tầm quan trọng đặc biệt. Song với Đại tướng Võ Nguyên Giáp, không phải lúc nào cũng giành chiến thắng bằng mọi giá, mà chiến thắng đó phải luôn đi kèm với việc giảm đến mức thấp nhất hy sinh xương máu của bộ đội. Với Đại tướng, quý trọng sinh mệnh của cán bộ và chiến sĩ, suy cho cùng cũng là quý trọng sinh mệnh của người dân. Thượng tướng Trần Văn Trà từng nói: “Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một vị Tổng Tư lệnh biết đau với từng vết thương của mỗi người lính, biết tiếc từng giọt máu của mỗi chiến binh!”. Ngược dòng lịch sử, tại cuộc họp kiểm điểm phê bình và tự phê bình trong đợt 2 của Chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại tướng đã thẳng thắn, nghiêm khắc phê bình, đồng thời truy vấn một số cán bộ chỉ huy: “Các đồng chí có xót xa không, khi bao nhiêu đồng chí của mình ngã xuống mà trận đánh không thành công do thiếu sót của lãnh đạo và chỉ huy?”. Nói xong, ông lấy khăn lau nước mắt. Lời phê bình nghiêm khắc nhưng chân thành, thắm đượm tình cán - binh của vị chỉ huy cao nhất làm cho những cán bộ có mặt thực sự cảm thấy thấm thía, nhận thức sâu sắc hơn trách nhiệm to lớn của mình, nhất là phải làm thế nào để giảm thấp nhất hy sinh xương máu của bộ đội.
Đối với kẻ địch, thấu triệt tinh thần “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo” của các bậc tiền nhân, Đại tướng Võ Nguyên Giáp không chỉ là một vị tướng biết đánh thắng địch bằng quân sự, mà còn biết thắng địch bằng nhân nghĩa, biết khoan dung đối với kẻ địch đã đầu hàng. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người từng một thời đứng bên kia chiến tuyến, từ những tướng lĩnh của Pháp đến những người lính Âu - Phi... đều dành cho Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp sự kính trọng và khâm phục đặc biệt. Tư tưởng nhân nghĩa được kết tinh từ truyền thống nhân văn trong chống giặc ngoại xâm của cha ông trên tinh thần “không vì tư thù, tư oán” được Võ Nguyên Giáp kế thừa và phát triển lên một tầm cao mới. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, sau trận mở màn chiến dịch, tiến công cụm cứ điểm Him Lam của Đại đoàn 312, thương vong của địch rất lớn, tử thương la liệt khắp trận địa. Theo đề nghị của Đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chỉ thị cho ông Mạc Ninh thảo ngay một bức thư chuyển cho Bộ chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ đề nghị cho người ra Him Lam nhận tử thương. Ngay sau ngày chiến thắng, trên cánh đồng Mường Thanh và dọc theo bờ sông Nậm Rốm, Đại tướng cùng Bộ chỉ huy chiến dịch đã cho dựng hàng chục chiếc lều từ vải dù để cứu chữa cho tù binh, hàng binh bị thương. Một nữ tù binh sau khi được phẫu thuật cứu sống kịp thời đã thốt lên: “Cha mẹ tôi đã sinh ra tôi, nhưng chính nhân dân và quân đội Việt Nam đã thực sự cứu tôi sống lại”.
Với chính mình, cái “tôi” trong con người Võ Nguyên Giáp là cái tôi “dĩ công vi thượng”. Ông là người nghiêm khắc, nhưng khiêm tốn, bình dị, bao dung và độ lượng. Cho dù trên cương vị nào, dường như ít khi thấy Đại tướng Võ Nguyên Giáp cáu gắt, to tiếng với cấp dưới. Trong cuộc sống, Đại tướng thường nói về cái tốt, cái đúng của đồng chí, đồng đội, mà ít khi thấy ông thanh minh bất cứ một vấn đề nào thuộc về bản thân mình. Khi đề cập đến chiến thắng của các chiến dịch, thắng lợi của hai cuộc kháng chiến, bao giờ và trước hết Đại tướng cũng nói đến vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Tổng Quân ủy; nhắc đến công lao, cống hiến của đồng đội, đồng chí và đồng bào cả nước…
Có lẽ, ngay từ khi dấn thân vào đời binh nghiệp, nhà giáo Võ Nguyên Giáp không hề nghĩ rằng mình sẽ “làm tướng”, cho dù năm 1948 ông đã được phong quân hàm Đại tướng. Suốt chặng đường hoạt động cách mạng, trong đó hơn một phần ba thế kỷ trực tiếp cầm quân, Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp luôn hết lòng vì công việc, tận tụy hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ; luôn có tấm lòng tôn trọng, yêu thương mọi người. Cũng chính vì vậy, mặc dù Đại tướng đã mãi đi xa, nhưng trong trái tim mọi người, ông vẫn là bất tử.
Thời nào cũng vậy, phấn đấu để được “làm tướng” đã khó, giữ được đức NHÂN trong đạo làm tướng, như Bác Hồ đã dạy, càng khó hơn. Vậy nhưng, Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã làm được điều đó. Chất nhân văn trong con người Đại tướng cũng chính là hiện thân của tư tưởng nhân nghĩa, nhân văn trong văn hóa giữ nước của dân tộc Việt Nam được tích tụ, bồi đắp qua hàng nghìn năm lịch sử và được tỏa sáng, phát triển lên tầm cao mới trong thời đại Hồ Chí Minh./.
PGS, TS TRẦN NGỌC LONG
Nguyên Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam

Thứ Tư, 21 tháng 8, 2019

ĐỂ MỊ NÓI CHO MÀ NGHE VỀ BÁC TRỌNG

Một bài viết trên mạng xã hội với tựa đề “Ông Trọng - Ông là ai” mà nhận được đến hàng nghìn lượt “like”, hàng trăm lượt bình luận và chia sẻ. Chẳng thể hiểu nổi những con người ấy đang ở đâu, đang làm gì mà có thể tin theo những lời lẽ xuyên tạc, vu khống trắng trợn về Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng như thế.

ĐỂ MỊ NÓI CHO MÀ NGHE VỀ BÁC TRỌNG
Thông tin xuyên tạc về Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng
Cũng vẫn là vấn đề về việc Trung Quốc có những hành vi gây hấn trên biển Đông; vẫn là việc một số thành phần kích động biểu tình, gây rối… Thế nhưng, lời lẽ của bài viết được nhắc đến thì bẻ cong sự thật hoàn toàn. Họ xuyên tạc rằng từ khi bác Trọng nắm giữ chức vụ Tổng Bí thư đến nay trở thành Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, thì chưa một lần lên tiếng phản đối Trung Quốc có hành vi xâm phạm chủ quyền Việt Nam. Vụ cắt cáp tàu Bình Minh, vụ giàn khoan HD981, vụ Formosa, vụ Bãi Tư Chính… bác Trọng đều im lặng nhưng lại “bắt bớ” người “biểu tình chống Trung Quốc”. Họ còn cho rằng Bác Trọng “hối thúc” thông qua “Luật Đặc khu” là để “bán nước cho Trung Quốc”; “sao chép” Luật An ninh mạng từ Trung Quốc để ngăn chặn “làn sóng dân chủ”…
Bài viết nói trên hiện đang được chia sẻ liên tục trên một số diễn đàn chống đối, phản động và nhận được lượng tương tác khá cao. Đúng là môi trường mạng còn chưa được quản lý chặt chẽ và dân trí của nhiều kẻ thì thật sự “hạ đẳng”!
Cái thâm hiểm của người viết bài xuyên tạc nói trên là hướng người đọc tập trung vào việc Tổng Bí thư, Chủ tịch nước không có những phát ngôn chính thức sau những sự kiện xảy ra tại Biển Đông. Từ cơ sở này, họ bắt đầu “thêm mắm, bỏ muối” để người đọc hiểu sai vấn đề. Nhưng, nếu tỉnh táo và chịu tư duy hợp lý, chúng ta sẽ thấy được mọi lý lẽ đưa ra đều chỉ là sự giả dối, ngu dốt.
Đi trọng tâm vào vấn đề, tại sao bác Trọng không lên tiếng trước các sự kiện xảy ra trên Biển Đông? Thực tế là không riêng gì bác Trọng mà tất cả các lãnh đạo khác của Đảng, Nhà nước đều không có phát ngôn báo chí nào. Bởi lẽ, mọi phát ngôn chính thức của Việt Nam đều thông qua Bộ Ngoại giao. Đây sẽ là những phát ngôn chính xác nhất, được tính toán chi tiết và cẩn thận để làm cơ sở truyền thông điệp cho cả quốc tế. Cần hiểu, Bộ Ngoại giao là đại diện cho tiếng nói của Nhà nước trong các quan hệ quốc tế chứ không phải bất cứ một phát ngôn báo chí hay lời nói chuyện phiếm trên mạng xã xã hội.
Cùng đó, hãy tự hỏi xem để đi đến được phát ngôn của Bộ Ngoại giao thì ai là người chỉ đạo, ai là người phê duyệt ý kiến? Tất nhiên sẽ lại là những người đứng đầu Đảng, Nhà nước mà không phải ai khác rồi. Tức là, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước hay Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội đã phát biểu trong các cuộc họp của Đảng, Nhà nước rồi. Không hề có sự im lặng nào ở đây. Mọi thứ được thực hiện theo quy trình, theo các căn cứ pháp lý mà thế giới công nhận. Đâu phải trò trẻ con như mấy anh chị “chém gió” trên mạng xã hội thế kia.
Tiếp nữa, bác Trọng có “bắt bớ, bỏ tù” người “biểu tình chống Trung Quốc” hay không? Hoàn toàn KHÔNG! Nhìn xem, vụ việc giàn khoan HD981, vụ Formosa, vụ “Luật đặc khu”, đoàn người xuống đường tụ tập, gây rối mất trật tự rất rất nhiều. Nếu bỏ tù hết thì hỏi rằng có đủ nhà tù hay không?
Vấn đề là các cơ quan công quyền đã phân định được rõ hai thái cực: kẻ kích động gây rối và người dân lương thiện bị lừa gạt. Rõ ràng, chỉ có những kẻ gây rối, kích động đập phá cơ sở vật chất Nhà nước, chặn đường quốc lộ, gây thiệt hại cho nền kinh tế mới phải chịu hình phạt. Những người dân yêu nước khác, chỉ bị lợi dụng, không biết cách thể hiện đúng lòng yêu nước đều được giải thích, vận động cho hiểu vấn đề. Nhìn xem, lực lượng đảm bảo an ninh chỉ tự vệ trước những đợt tấn công chứ không đàn áp, đánh đập người biểu tình…
Vậy, bác Trọng hay bất cứ một cơ quan, tổ chức chính quyền nào cũng đều không bắt bớ, bỏ tù “người biểu tình chống Trung Quốc”. Đối tượng bị bắt, bị xử phạt đều là những kẻ vi phạm pháp luật.
Ngoài ra, các vấn đề về Luật An ninh mạng, “Luật Đặc khu”… báo chí, truyền thông đã nói quá nhiều; các cấp chính quyền cũng đã giải thích rất cụ thể, hợp lý. Có lẽ sẽ chẳng cần phải giải thích lại nữa. Hãy tự tìm đọc để biết, để hiểu cho chính các bạn.

Để Mị nói cho mà nghe

Sau tất cả, có còn ai hiểu sai, hiểu chưa đúng về Tổng Bí thư, Chủ tịch nước hay không? Ai còn muốn hỏi “Ông Trọng - Ông là ai?” thì để Mị trả lời. 
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là người lãnh đạo quả quyết nhất, mạnh mẽ nhất trong công cuộc chống tham nhũng thời gian qua. Đừng xuyên tạc rằng đó là “xâu xé, đấu đá” nội bộ, làm gì có nội bộ nào với những kẻ quan tham? Công cuộc chống tham nhũng được toàn thể người dân ủng hộ, đồng lòng.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước cũng là người lãnh đạo Đảng, đưa ra chủ trương về phát triển kinh tế tư nhân từ Nghị quyết Trung ương 5 (Khoá XII). Từ đó, kinh tế Việt Nam bắt đầu có những bước ngoặt lớn. Và ngày hôm nay, chúng ta có những doanh nghiệp Việt đang vươn lên mạnh mẽ, sản xuất ô tô, điện thoại thông minh… Chẳng còn thua thiệt với thế giới!
Thực tế hôm nay là những thành quả đất nước đạt được, là niềm vui của nhân dân. Chắc chỉ có nhân dân Việt Nam, những người yêu nước mới hiểu. Kẻ phản động chống đối vốn ngu dốt hiểu làm sao?

Thứ Hai, 19 tháng 8, 2019

TỈNH TÁO ĐỂ LÒNG YÊU NƯỚC KHÔNG BỊ LỢI DỤNG

Yêu nước là một truyền thống quý báu của dân tộc ta. Nó được hình thành, hun đúc và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, trở thành sức mạnh vô cùng to lớn để xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, chống đối thông qua các chiêu trò cố tình lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân ta để thực hiện những mưu đồ đen tối.

TỈNH TÁO ĐỂ LÒNG YÊU NƯỚC KHÔNG BỊ LỢI DỤNG

Tổ quốc là thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, truyền thống ông cha ta luôn kế truyền, phát huy đời này qua đời khác với tinh thần “không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Việc giữ vững độc lập chủ quyền lãnh thổ phải bằng các chủ trương, đường lối phù hợp, lấy hòa bình, ổn định làm trọng, hết sức ngăn ngừa các nguy cơ gây chiến tranh, xung đột.
Thời gian qua, những tranh chấp về chủ quyền biển đảo tại khu vực Biển Đông diễn biến phức tạp. Về phía Việt Nam, chúng ta kiên định mực tiêu bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ trên cơ sở tôn trọng, nghiêm chỉnh chấp hành luật pháp quốc tế. Tuy nhiên, các thế lực thù địch lại cố tình lợi dụng vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông để xuyên tạc, kích động chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Nhận diện những luận điệu chống phá

Gần đây, một số trang thông tin của các cá nhân, tổ chức phản động và trang báo thù địch ở nước ngoài đăng tải nhiều bài nói, bài viết, thông tin liên quan đến việc nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Tuy nhiên, nội dung của các bài nói, bài viết, thông tin được đưa ra lại có nhiều vấn đề sai lệch, mang tính kích động người dân.
Đích đến của các đối tượng là lợi dụng vấn đề này để làm cho tình hình trong nước trở nên rối ren, phức tạp, âm mưu phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, chống phá chính quyền, thực hiện các cuộc “đấu tranh bất bạo động” theo một kịch bản có sẵn và cuối cùng là xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tiến hành hướng lái chính trị ở Việt Nam. Những thông tin, luận điệu nguy hiểm đang được các thế lực thù địch đưa ra trên mạng gồm:

Thứ nhất, kích động người dân tuần hành, biểu tình, tụ tập đông người gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự

Thực tế, việc kích động người dân xuống đường tụ tập, tuần hành, biểu tình không phải là vấn đề xa lại. Đây là một phần trong kịch bản “cách mạng đường phố” mà các đối tượng đang hướng đến. Dưới vỏ bọc tuần hành thể hiện tình yêu nước và bảo vệ Tổ quốc, các đối tượng rêu rao việc xuống đường đấu tranh là ôn hoà, phi bạo lực.
Tuy nhiên, đây là cái cớ để chúng thực hiện mục tiêu chống phá như ném bom xăng, tấn công trụ sở cơ quan công quyền, tấn công cảnh sát, cán bộ cơ quan Đảng, Nhà nước. Năm 2014, khi Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan HD981 vào vùng biển của Việt Nam, lợi dụng lòng yêu nước của quần chúng nhân dân, các đối tượng đã dựng lên cái gọi là “tuần hành ôn hoà” tại nhiều tỉnh, thành trên cả nước.
Vậy nhưng sự “ôn hoà” lại được thể hiện bằng cách đập phá tài sản của doanh nghiệp, ném bom xăng vào trụ sở cơ quan chức năng, chống người thi hành công vụ, gây nhiều hệ lụy.
Cũng cần nhấn mạnh thêm, không chỉ riêng sự kiện Trung Quốc xâm phạm chủ quyền lãnh thổ trên biển Đông mà đối với tất cả các sự kiện “nóng”, các thế lực thù đều cố tình kích động người dân xuống đường biểu tình chống đối chính quyền. Đây là một phần trong âm mưu gây bạo loạn, lật đổ chính quyền qua con đường gọi là “phản kháng phi bạo lực” mà các đối tượng đang sử dụng để lừa dối người dân.

Thứ hai, xuyên tạc trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc của người dân

Bảo vệ Tổ quốc là quyền và đồng thời cũng là trách nhiệm vô cùng thiêng liêng của mỗi người dân. Điều 64, Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam khẳng định: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là sự nghiệp của toàn dân”.
Trong đó, nòng cốt tham gia vào sự nghiệp này là lực lượng vũ trang nhân dân. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, chống đối lại xuyên tạc rằng, đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ là trách nhiệm của lực lượng vũ trang, không phải là trách nhiệm của nhân dân. Bằng những lập luận vô căn cứ của mình, các đối tượng cố tình xuyên tạc trách nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân.
Qua các luận điệu sai lệch, các đối tượng muốn tách lực lượng vũ trang ra khỏi quần chúng nhân dân. Từ đây âm mưu của kẻ địch là khiến cho khối đoàn kết quân - dân bị lung lay, làm cho sức mạnh nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân bị suy yếu.
Cùng với đó, các đối tượng còn cổ suý, đưa luận điệu tuyên truyền “hãy để dân yêu lấy Tổ quốc mình”. Các đối tượng cho rằng, “tự người dân có thể bảo vệ Tổ quốc”, không cần sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước. Thông qua những luận điệu này, các đối tượng kích động, chia rẽ nhân dân với Đảng và Nhà nước, hình thành nhận thức sai lệch về sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.

Thứ ba, xuyên tạc chủ trương, đường lối bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia của Đảng, Nhà nước ta

Với những căn cứ lịch sử, pháp lý của mình, Việt Nam hoàn toàn có chủ quyền trên khu vực biển Đông. Mọi hành động tranh chấp của phía Trung Quốc đều là đơn phương và không có giá trị. Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn theo dõi sát sao mọi biến động trên biển Đông và có cách ứng xử phù hợp để bảo vệ vững chắc chủ quyền của Việt Nam.
Tuy nhiên, các thế lực thù địch, chống đối nhiều lần đưa ra các thông tin sai lệch về thực tiễn, vu khống hoạt động bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc. Cùng với đó, các đối tượng cũng xuyên tạc một cách trắng trợn chủ trương, đường lối, chính sách liên quan đến việc bảo vệ chủ quyền trên biển Đông của Đảng, Nhà nước ta.
Nhiều đối tượng phản động, cơ hội chính trị núp dưới bóng đấu tranh vì dân chủ, nhân quyền, bảo vệ Tổ quốc đã thực hiện nhiều hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam. Hệ quả là nhiều đối tượng đã bị đưa ra đứng trước vành móng ngựa, bị toà tuyên án. Tuy nhiên, với ý thức chống đối sâu sắc, các đối tượng trong tù kết hợp với các đối tượng chống đối ngoài nhà tù tiếp tục thực hiện không ít chiêu trò để đạt được mục đích chống phá Đảng, Nhà nước.

Tỉnh táo để thể hiện lòng yêu nước đúng nghĩa

Hiện nay, để chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam, các thế lực thù địch, chống đối đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình”. Trong đó, thông tin - truyền thông được các đối tượng xác định là một mũi nhọn mang tính đột phá, khiến cho nước ta suy yếu, sụp đổ từ bên trong. Trong cuộc chiến thông tin, các thế lực chống phá cố tình đưa ra các dòng thông tin lệch chuẩn.
Thủ đoạn được các đối tượng thường xuyên sử dụng là lợi dụng các sự kiện nóng, các vấn đề nhạy cảm, những nội dung được đông đảo người dân quan tâm, để từ đó viết bài có nội dung xuyên tạc, kích động sự thù hằn, chống đối.
Khi viết bài, các đối tượng cố tình “múa bút” theo hướng biến mọi thứ trở nên ly kỳ, bí hiểm để kích động sự tò mò của người dân. Các đối tượng này cũng không quên việc “phỏng vấn”, trích lời các đối tượng cơ hội chính trị, những người tự xưng là “nhà dân chủ” để tiến hành chống phá. Sau đó, qua các kênh truyền thông, blog, mạng xã hội để lan truyền những thông tin này đến với người dân. Từ đó tác động đến nhận thức, tư tưởng của mọi người.
Với phương thức, thủ đoạn như trên, các đối tượng đã lừa dối không ít người dân, biến người dân trở thành “con rối” trong cái gọi là “phản kháng phi bạo lực” mà các đối tượng đang thực hiện. Để lòng yêu nước phát huy giá trị của mình, không bị các thế lực thù địch, chống đối lợi dụng vào việc gây bất lợi cho Tổ quốc, mỗi người dân phải thực sự tỉnh táo, bản lĩnh và có đủ hiểu biết để “gạn đục, khơi trong”, không mắc bẫy ma trận thông tin sai trái./.
Trần Anh Tú

Thứ Bảy, 10 tháng 8, 2019

UNCLOS - CƠ SỞ PHÁP LÝ QUỐC TẾ THIẾT LẬP TRẬT TỰ PHÁP LÝ TRÊN BIỂN, THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN VÀ HỢP TÁC BIỂN

Năm 2019 đánh dấu 25 năm ngày Công ước quốc tế của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) chính thức có hiệu lực và 25 năm Việt Nam phê chuẩn UNCLOS. Việc Việt Nam tích cực tham gia và thực thi UNCLOS thể hiện thiện chí, sự coi trọng và kỳ vọng của Việt Nam vào trật tự pháp lý công bằng về biển.

UNCLOS - CƠ SỞ PHÁP LÝ QUỐC TẾ THIẾT LẬP TRẬT TỰ PHÁP LÝ TRÊN BIỂN, THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN VÀ HỢP TÁC BIỂN

Năm 2019 đánh dấu 25 năm ngày Công ước quốc tế của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) chính thức có hiệu lực và 25 năm Việt Nam phê chuẩn UNCLOS.
Việc Việt Nam tích cực tham gia và thực thi UNCLOS thể hiện thiện chí, sự coi trọng và kỳ vọng của Việt Nam vào trật tự pháp lý công bằng về biển. Nghị quyết ngày 23-6-1994 của Quốc hội về việc phê chuẩn UNCLOS nêu rõ: “Bằng việc phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam biểu thị quyết tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển”.

UNCLOS là khuôn khổ pháp lý toàn diện về biển và đại dương

1. UNCLOS bao gồm các quy định toàn diện xác lập các vùng biển, điều chỉnh mọi hoạt động trên biển và đại dương ở cấp độ quốc gia, khu vực và toàn cầu. UNCLOS có giá trị cao hơn so với các Công ước và hiệp định/ thỏa thuận quốc tế khác, và các nguồn khác của luật quốc tế trong đó có luật tập quán quốc tế về biển.
UNCLOS nêu rõ: hiệp định/ thỏa thuận giữa hai hay nhiều quốc gia thành viên UNCLOS về bất kỳ vấn đề nào được quy định tại UNCLOS thì phải phù hợp với UNCLOS; chỉ có các quyền, nghĩa vụ hình thành từ các quy tắc của pháp luật quốc tế không trái với UNCLOS là được công nhận và áp dụng bởi toà án hay toà trọng tài có thẩm quyền theo Phần XV Công ước.
2. Việc giải thích theo hướng UNCLOS không phải là khuôn khổ pháp lý duy nhất và còn có các khuôn khổ khác như luật tập quán quốc tế hình thành trước UNCLOS điều chỉnh các vấn đề về biển là đi ngược lại với mục tiêu của UNCLOS, nhằm hạ thấp giá trị của UNCLOS. Do có tầm quan trọng chiến lược, tính thống nhất, toàn vẹn của UNCLOS cần tiếp tục được duy trì.

UNCLOS quy định rõ quy chế pháp lý của các vùng biển, quyền và nghĩa vụ của các quốc gia

3. UNCLOS là cơ sở để xác lập phạm vi các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia ven biển, kể cả quốc gia quần đảo (gồm nội thuỷ, vùng nước quần đảo của quốc gia quần đảo, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa); các vùng biển ngoài phạm vi tài phán quốc gia (gồm Biển cả hay còn gọi là biển quốc tế, Vùng đáy biển quốc tế và tài nguyên khoáng sản ở đó là di sản chung của nhân loại). UNCLOS còn quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các quốc gia.
Theo UNCLOS, mọi hoạt động liên quan đến thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia ven biển phải được phép của quốc gia đó; mọi hoạt động không được cấp phép đều là bất hợp pháp, vi phạm một cách rõ ràng các quy định của Công ước.
Điều 121 UNCLOS quy định tiêu chí xác định “đảo” là vùng đất tự nhiên có nước bao bọc và luôn ở trên mặt nước khi thuỷ triều lên; các đảo có khả năng duy trì điều kiện cho con người đến ở và có đời sống kinh tế riêng thì sẽ có đầy đủ các vùng lãnh hải, tiếp giáp, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa như lãnh thổ đất liền. Các đá không có đáp ứng hai điều kiện nêu trên thì chỉ có lãnh hải 12 hải lý, không vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Các bãi cạn lúc nổi, lúc chìm nói chung không có lãnh hải riêng (và do đó cũng không có vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa) và sự có  mặt của chúng không ảnh hưởng đến việc xác định ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục  địa.
Căn cứ quy chế đảo tại UNCLOS, trong một vụ gần đây Tòa trọng tài theo Phụ lục VII UNCLOS đã kết luận, không một cấu trúc địa lý nào tại quần đảo Trường Sa có khả năng tạo ra vùng biển ĐQKT, thềm lục địa; các đảo của quần đảo Trường Sa không thể cùng nhau tạo ra các vùng biển như một thực thể thống nhất.

UNCLOS thiết lập các cơ quan, cơ chế để bảo đảm thực thi Công ước, trong đó có cơ chế giải quyết tranh chấp về giải thích và áp dụng Công ước

4. Để bảo đảm thực thi Công ước đầy đủ và nhất quán, UNCLOS thành lập các cơ quan, cơ chế với vai trò và chức năng khác nhau, có tính chất bổ sung cho nhau. UNCLOS cũng quy định cơ chế giải quyết tranh chấp trong việc giải thích và áp dụng Công ước (Phần XV), bao gồm các tiến trình ngoại giao và pháp lý. Khi có tranh chấp, các quốc gia thành viên có nghĩa vụ nhanh chóng trao đổi quan điểm về giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán hoặc các biện pháp hòa bình khác.
Nếu việc trao đổi, đàm phán trong một thời gian hợp lý không đạt được giải pháp, các bên có thể thỏa thuận đưa tranh chấp ra giải quyết tại cơ quan tài phán quốc tế để có phán quyết ràng buộc, đó là Tòa án Công lý quốc tế (ICJ), Tòa án Luật Biển quốc tế (ITLOS - được thành lập theo Phụ lục VI của UNCLOS) hoặc Tòa trọng tài (theo Phụ lục VII UNCLOS), Tòa trọng tài đặc biệt (theo Phụ lục VIII UNCLOS). Tranh chấp nếu không được giải quyết thông qua trao đổi, đàm phán trong thời gian hợp lý thì có thể đưa ra cơ chế bắt buộc – Tòa trọng tài theo Phụ lục VII UNCLOS (với những điều kiện nhất định), hoặc đưa ra Uỷ ban hòa giải (được thành lập theo Phụ lục V của UNCLOS), trên cơ sở các khuyến nghị của Uỷ ban hòa giải tuy không có giá trị ràng buộc pháp lý, các bên tranh chấp có nghĩa vụ phải đàm phán để đạt giải pháp giải quyết tranh chấp, và nếu không đàm phán được, các bên có nghĩa vụ giải quyết thông qua cơ quan tài phán.
Phán quyết của các cơ quan tài phán theo quy định của UNCLOS góp phần giải thích đúng đắn các quy định của UNCLOS, làm rõ một số vấn đề còn chưa rõ hoặc gây tranh cãi, hoặc yêu sách và hành động trái với quy định của UNCLOS.
Hiệu quả thực thi UNCLOS, cũng giống như việc thực thi các điều ước quốc tế khác, trên thực tế không chỉ thể hiện ở quan điểm của quốc gia tại các diễn đàn khu vực và quốc tế thảo luận về biển mà phụ thuộc vào hành động của mỗi quốc gia thành viên trong việc sử dụng biển, đại dương và các tài nguyên biển, đòi hỏi thiện chí và quan tâm đúng mức của mỗi quốc gia.
5. Là quốc gia ven biển, thành viên của UNCLOS, Việt Nam đã và đang nỗ lực kiên trì giải quyết một cách hòa bình các vấn đề Biển Đông, phù hợp với luật pháp quốc tế trong đó có UNCLOS. Việt Nam đồng thời đã và đang thực thi đầy đủ UNCLOS kể từ khi chấp nhận sự ràng buộc của UNCLOS và trở thành một quốc gia thành viên của UNCLOS 25 năm trước, nỗ lực thực hiện bảo tồn biển và đại dương và các nguồn lợi biển một cách bền vững, phù hợp với các tiêu chí của Mục tiêu phát triển bền vững số 14 về bảo tồn và sử dụng bền vững biển, đại dương và tài nguyên biển (SDG14) thuộc Chương trình nghị sự 2030 của LHQ. Việt Nam cần tiếp tục nỗ lực cùng với các nước thành viên khác thúc đẩy tôn trọng UNCLOS, đồng thời bảo vệ tính toàn vẹn và giá trị pháp lý của khuôn khổ pháp lý toàn cầu này. 
TS Lê Thị Tuyết Mai

Thứ Năm, 8 tháng 8, 2019

CHUYỆN TẤU HÀI LÀNG VĂN


Gần đây, nghe nói hội bên cụ Ngọc náo nhiệt dữ lắm, nghe bảo sắp oánh nhau to tới nơi chứ chẳng đùa…
Mị nghe chỉ biết phì cười. Làm gì tới nỗi ấy. Là vì toàn văn nghệ sĩ, trí thức với nhau cả. Dân chữ nghĩa nhà Mị làm gì có cái kiểu trợn mắt, đập bàn sỉ vả vào mặt nhau, làm gì có cái kiểu thổ ra với nhau toàn cái thứ ngôn từ thô tục đến sùi bọt mép như cái đám ruồi bu ngoài kia đang đồn thổi, vu vạ. Như thế là phàm tục. Phàm tục hết sức! Hiểu chửa?
Để Mị nói cho mà nghe!
Ừ thì cũng có mấy thằng đang chửi nhau thật! Ấy là vì xung quanh cái Giải Văn Việt lần thứ 4. Nghe nói anh Khải ảnh không hài lòng, chẳng phải vì ảnh không có giải mà ảnh lộn lên như rồng thế đâu. Thật đấy! Ảnh chỉ bảo: Viết như tao thì không được trao giải, lại đi trao cho cái thằng Vũ Lập Nhật. Thằng đó thì thơ thẩn đ.é.o gì, viết như c*t, đ.é.o ngửi được! Đấy, chỉ có thế thôi mà người ta chỉ trích ảnh, lên án ảnh, nói ảnh làm mất đoàn kết nội bộ. Người ta quên mất ảnh là một trong những người đầu tiên đề xuất thành lập “Văn đoàn độc lập”. Trước khi đến với văn nghệ, ảnh còn là nhà báo, ảnh nhiều chữ, ảnh nho nhã! Mà nghe nói ảnh tức lắm, ảnh tức thật. Ảnh lỏ c*t, ảnh tuyên bố cạch mặt, đòi giải tán “Văn đoàn độc lập” cơ. Mà nghĩ, ảnh có cái lý của ảnh. Đừng ai vu cho ảnh cái tội hám danh, thèm khát chi ba đồng tiền giải thưởng (mà nghe nói nó cũng nhiều thiệt!). Tội ảnh!


CHUYỆN TẤU HÀI LÀNG VĂN


Chuyện chỉ có vậy, có gì to tát đâu mà nghe bảo anh Dũng đầu bạc xỉa xói ảnh là đồ nhà báo cùi lú, đến đánh máy còn không biết, viết bài toàn đi nhờ con nít đánh. Đến cái đơn đòi cạch mặt hội cũng đi nhờ người khác đánh dùm. Ủa, lạ à nhen, ảnh là nhà báo chứ đâu phải dân IT. Ảnh làm gì ra chữ thì thôi chớ, kỳ cục!
Mà nghĩ cũng buồn. Hồi Ban vận động thành lập “Văn đoàn độc lập” vừa ra mắt, Mị cũng khấp khởi lắm! Lót dép hóng mấy năm trời, không biết mùa quýt nào  “Văn đoàn độc lập” mới bỏ được dòng chữ Ban vận động thành lập đằng trước, hiên ngang lẫy lừng đứng một mình như cái tôn chỉ mục đích của nó. Chả thấy đâu, chỉ thấy một đám người lục tục ghi tên vào rồi lại lục tục xin ra. Từ ông đầu bạc đến thằng đầu xanh, không tuyên bố đòi giải tán hội thì cũng trề cái môi dài cả thớt khi dứt áo ra đi. Thì mới đây, anh Phu râu dài ảnh chả bảo ảnh ẻ vào cái trang Văn Việt chấm in phô đấy còn gì. Nguyên nhân theo ảnh là trang này ngày càng đăng bài đết ngửi được!
Lại còn chuyện đám anh Hưng, anh Văn, anh Trọng coi nhau như mấy cái mặt thớt ấy hả? Ấy, chuyện văn nghệ sĩ, đừng có nói mấy ảnh ăn chia không đều quay ra cắn nhau à nha. Bậy bạ hết sức! Thì đúng là cái giải thưởng Văn Việt ấy có nguồn tài trợ thật! Thì đúng là giải ngân kinh phí thật! Tiền nhiều để làm gì? Còn ai tài trợ ấy hả? Chắc không phải các nhà yêu nước, dân chủ hải ngoại, lực lượng giải phóng cứu độ chúng sinh gì gì đó đâu. Mị biết nhưng chả nói. Đi mà hỏi cụ Ngọc!
Chuyện là như thế, có gì đâu. Đã nói rồi, đó là cuộc đấu thanh giữa “Nghệ thuật vị nghệ thuật” và “Nghệ thuật vị nhân sinh”. Nghe chửa?
Nghe rồi thì cố mà hiểu, đừng đồn thổi lung tung!
Với cả, cấm cười, có cười thì nhớ che miệng. Đấy là chuyện làng văn nghệ, có phải tấu hài đâu mà cười… Vô duyên!
Mị

Thứ Ba, 6 tháng 8, 2019

NHẬN DIỆN THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG QUYỀN CỦA NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ ĐỂ CHỐNG PHÁ CHẾ ĐỘ


Thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam, trong những năm qua, quyền của người dân tộc thiểu số (DTTS) luôn là một trong những vấn đề chiến lược được các thế lực thù địch triệt để lợi dụng nhằm gây mất ổn định, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng ta, đưa Việt Nam đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản.

NHẬN DIỆN THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG QUYỀN CỦA NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ ĐỂ CHỐNG PHÁ CHẾ ĐỘ

Chúng coi đó là một yếu tố quan trọng để tạo sức ép từ bên ngoài, đồng thời kích động các hoạt động chống phá từ bên trong. Trong đó, chúng tập trung vào một số hoạt động cơ bản sau:
Một là, lợi dụng các vấn đề về lịch sử, đất đai và cuộc sống khó khăn của một bộ phận đồng bào DTTS để vu cáo Nhà nước ta “phân biệt đối xử”,“đàn áp người DTTS”, ép người DTTS phải “bỏ đạo, bỏ văn hoá dân tộc” hoà nhập với “cuộc sống văn minh” của người Kinh… để kích động, lôi kéo người DTTS biểu tình, bạo loạn, xâm phạm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội (ANCT-TTATXH) ở nước ta.
Các thế lực thù địch còn triệt để lợi dụng sơ hở, thiếu sót trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo, giải quyết khiếu nại tố cáo… ở vùng DTTS để mua chuộc, lôi kéo những phần tử xấu và người DTTS gây mất ổn định ANCT-TTATXH trên địa bàn.
Chúng còn lợi dụng sự thoái hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên; triệt để xoáy sâu tâm lí và sự dồn nén bức xúc do số cán bộ, đảng viên này gây ra với đồng bào để tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phủ nhận thành tựu công cuộc đổi mới nhằm làm cho nhân dân mất niềm tin vào Đảng, vào chính quyền.
Hai là, chúng đánh tráo và đồng nhất khái niệm quyền dân tộc tự quyết là quyền của quốc gia - dân tộc với quyền của các DTTS để tuyên truyền, xuyên tạc nhằm làm cho đồng bào các dân tộc ngộ nhận rằng, quyền dân tộc tự quyết là quyền của riêng đồng bào các DTTS.
Từ đó, chúng tìm cách kích động, lôi kéo đồng bào dân tộc đòi “quyền dân tộc tự quyết, tự quản”, đòi thành lập nhà nước riêng, thoát ly khỏi sự quản lý của Nhà nước, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc như: “Nhà nước Tin lành Đề-ga” ở Tây Nguyên, “Vương quốc Khmer Krom” ở Tây Nam Bộ, “Vương quốc Mông” ở Tây Bắc...
Qua đó nhằm hình thành các tổ chức đối lập với Đảng, Nhà nước ta. Bên ngoài, các tổ chức người Việt lưu vong ở nước ngoài như: “Hội người Mông thế giới”, “Hội người Thượng Đề-ga”… tích cực móc nối, tài trợ, chỉ đạo số đối tượng trong nước thu hút, tập hợp lực lượng, hình thành nhen nhóm phản động gây mất ổn định chính trị ở địa phương.
Ba là, triệt để tác động Quốc hội Mỹ và các nước phương Tây, các tổ chức quốc tế thông qua các dự luật, nghị quyết, báo cáo... hoặc tổ chức các cuộc điều trần, hội thảo, họp báo nhằm xuyên tạc, bóp méo tình hình nhân quyền ở các vùng DTTS ở nước ta.
Điển hình như: Báo cáo tình hình nhân quyền thế giới hằng năm của Anh, Mỹ; Nghị quyết của Nghị viện EU... Trong đó, chỉ riêng Hạ viện Mỹ hằng năm đã liên tục thông qua nhiều Dự luật, Nghị quyết về quyền của người DTTS tại Việt Nam như: Dự luật HR 1897, Nghị quyết H.Res.484… hay Báo cáo thường niên của Tổ chức Theo dõi nhân quyền (HRW), Tổ chức Ân xá Quốc tế (AI)...
Đặc biệt, các tổ chức phản động lưu vong còn tìm cách tham gia các diễn đàn của Liên hợp quốc để gây sức ép đòi Nhà nước Việt Nam phải trao “quyền tự quyết, tự quản” cho người Khmer, người Thượng… ở trong nước.
Bốn là, lợi dụng kênh ngoại giao song phương, đa phương, hợp tác quốc tế với Việt Nam để lồng ghép vấn đề “cải thiện dân chủ, nhân quyền” trong các nội dung hợp tác với nước ta; gây sức ép về vấn đề quyền của người DTTS, đòi “quyền dân tộc tự quyết” cho các nhóm DTTS trong quan hệ với Việt Nam.
Các thế lực thù địch còn thông qua tiếp xúc, làm việc với các cơ quan chức năng để tán phát, truyền bá các tài liệu, văn bản như: Thư ngỏ, Thông cáo báo chí… hoặc gửi kháng thư tới các lãnh đạo Đảng, Nhà nước nhằm xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền, trong đó có quyền của người DTTS ở trong nước, qua đó, hòng hạ thấp uy tín Việt Nam trên trường quốc tế.
Năm là, triệt để lợi dụng trình độ dân trí thấp, phong tục, tập quán lạc hậu của đồng bào các DTTS để “tôn giáo hóa” các vùng DTTS, vùng sâu, vùng xa, tập trung vào địa bàn Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ. Chúng lập ra các “tôn giáo riêng” cho đồng bào DTTS như “Tin lành Đề-ga” ở Tây Nguyên; “Tin lành của người Mông” ở Tây Bắc, “Phật giáo của người Khmer” ở Tây Nam Bộ…
Qua đó, hòng tập hợp, lôi kéo đồng bào dân tộc đi theo các tôn giáo rồi dùng thần quyền, giáo lý để nắm và khống chế quần chúng, chi phối các địa bàn, hình thành lực lượng đối trọng với chính quyền. Thông qua tôn giáo dụ dỗ đồng bào cản trở việc thực hiện chính sách, pháp luật, gây mất ổn định chính trị, xã hội ở địa phương.
Những năm qua, các cơ quan chức năng đã triển khai đồng bộ các biện pháp đấu tranh, ngăn chặn hoạt động lợi dụng quyền của người DTTS để xâm phạm ANCT-TTATXH nước ta.
Trong đó, đã chủ động nắm tình hình các địa bàn, đối tượng trọng điểm về dân tộc, tôn giáo, các tổ chức phản động lưu vong, các tổ chức quốc tế… thường có hoạt động chống phá ta về dân tộc, tôn giáo để triển khai các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn.
Chủ động ngăn chặn, vô hiệu hóa âm mưu, hoạt động thông qua triển khai các dự án, chương trình hợp tác quốc tế trong các vùng DTTS để lôi kéo, mua chuộc người dân tộc tham gia các hoạt động xâm phạm ANCT-TTATXH.
Đã tham mưu cho Đảng và chính quyền các cấp chủ động giải quyết từ cơ sở các vụ việc nhạy cảm, phức tạp liên quan tới dân tộc, tôn giáo trên địa bàn; đồng thời triển khai các phương án đấu tranh, xử lý nghiêm các đối tượng lợi dụng quyền của người DTTS xâm phạm ANCT-TTATXH trước pháp luật.
Thông qua nhiều kênh và hình thức tuyên truyền, chúng ta đã chuyển tải chính sách, thành tựu đã đạt được trong việc bảo vệ, phát huy quyền của người DTTS ở nước ta, giải tỏa kịp thời các thông tin xuyên tạc, sai lệch về vấn đề này tới các tầng lớp nhân dân, cộng đồng quốc tế, kiều bào ta ở nước ngoài.
Đặc biệt, việc nước ta bảo vệ thành công Báo cáo quốc gia theo Cơ chế kiểm điểm định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ III của Hội đồng Nhân quyền LHQ ngày 04/7/2019 tại Geneva (Thụy Sỹ) là minh chứng sinh động nhất khẳng định mạnh mẽ nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, trong đó có quyền của người DTTS, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao; góp phần đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc về vấn đề này đối với nước ta.   
Trong thời gian tới, các thế lực thù địch vẫn sẽ tiếp tục lợi dụng quyền của người DTTS nhằm thúc đẩy chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với nước ta.
Để phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả hoạt động này, các cơ quan chức năng cần tiếp tục tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về quyền của đồng bào các DTTS theo luật pháp quốc tế và pháp luật Việt Nam; âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề này chống phá Việt Nam để đề cao cảnh giác, không nghe theo kẻ xấu, không bị kẻ địch lợi dụng; tự giác thực hiện quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về dân tộc, tôn giáo.
Đề cao tinh thần dân tộc và tôn trọng những điểm khác biệt của các DTTS không trái với lợi ích chung của đất nước; kiên quyết chống tư tưởng kì thị, chia rẽ dân tộc, tôn giáo, dân tộc hẹp hòi, cực đoan hoặc mặc cảm dân tộc, tôn giáo.
Không ngừng chăm lo xây dựng, củng cố, kiện toàn hệ thống chính trị ở các địa bàn vùng DTTS, vùng sâu, vùng xa; nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, hiệu lực hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững mạnh.
Tiếp tục khơi dậy ý thức tự lực, tự cường và phát huy truyền thống đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển giữa các dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tiếp tục thực hiện hiệu quả các chương trình, dự án phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao trình độ dân trí, văn hóa, xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội, tạo mọi điều kiện để đồng bào các DTTS được tiếp cận với các điều kiện sống của khu vực thành thị, nhằm góp phần đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền và lợi ích của đồng bào các DTTS, vùng sâu, vùng xa.
Làm tốt công tác nắm tình hình, kịp thời phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, hoạt động lợi dụng quyền của người DTTS để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, chống phá cách mạng nước ta. Giải quyết triệt để, kịp thời các “điểm nóng”, các mâu thuẫn, khiếu kiện trong đồng bào các DTTS ngay từ cơ sở, không để kéo dài, không lây lan, vượt cấp…
Nguyễn Đức Quỳnh

Thứ Bảy, 3 tháng 8, 2019

KẺ BỊ TRUY NÃ “ĐI LẠC” VÀO HỘI NGHỊ VỀ THĂNG TIẾN TỰ DO TÔN GIÁO


Lâu nay, lĩnh vực tôn giáo luôn là mảnh đất để các thế lực thù địch, phản động lợi dụng khai thác triệt để, coi đó là công cụ hữu hiệu để chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng thường tạo dựng sự kiện để xuyên tạc, quy chụp Việt Nam không có tự do tôn giáo, người dân không có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
  
KẺ BỊ TRUY NÃ “ĐI LẠC” VÀO HỘI NGHỊ VỀ THĂNG TIẾN TỰ DO TÔN GIÁO
Các đại biểu quốc tế tham dự Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc Vesak 2019 tại Việt Nam
Sự việc hai đối tượng tự xưng là “nhà hoạt động vì tiến bộ tôn giáo” của Việt Nam đã đến Hội nghị cấp Bộ trưởng về thăng tiến tự do tôn giáo và gặp Tổng thống Mỹ Donald Trump để xuyên tạc tình hình tôn giáo ở Việt Nam là minh chứng rõ ràng nhất.

Hai kẻ bị truy nã “đi lạc” vào Hội nghị

Từ ngày 16 đến 18/7, tại trụ sở Bộ Ngoại giao Mỹ đã diễn ra Hội nghị cấp Bộ trưởng về thăng tiến tự do tôn giáo và sự kiện này được các thế lực thù địch, phản động tìm mọi cách để khuếch trương về mục tiêu mang tính “nhân văn” của những nội dung thảo luận về tình hình tự do tôn giáo trên toàn thế giới, đưa ra những biện pháp “để đảm bảo sự tự do tôn giáo toàn thế giới”.
Tuy nhiên, trên thực tế lại không như vậy. Chúng cho rằng, tham dự hội nghị này có hơn 1.000 đại diện của nhiều tổ chức tôn giáo và xã hội dân sự và những nhà hoạt động vì tự do tôn giáo ở các nước. Song, đến dự hội nghị này là sự xuất hiện của 2 đối tượng phạm pháp, hoàn toàn không phải là đại diện cho bất kỳ tổ chức tôn giáo nào ở Việt Nam.
Hai đối tượng đã xuyên tạc, bóp méo về vấn đề tôn giáo ở Việt Nam, đưa ra những bịa đặt, quy chụp Việt Nam không có tự do tôn giáo, nhất là khi các đối tượng đến gặp Tổng thống Mỹ Donald Trump.
Hai đối tượng người Việt Nam đến dự Hội nghị và gặp Tổng thống Mỹ Donald Trump tự xưng là Mục sư Tin Lành A Gađạo hữu Cao Đài Dương Xuân Lương có thực sự đại diện cho tôn giáo của Việt Nam? Không hề! Thực tế, cả hai đối tượng này đều là những thành phần bất hảo, có định kiến với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam; đã từng có những hành vi vi phạm pháp luật và bị Công an Việt Nam truy nã.
Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó có 6 tôn giáo lớn, gồm: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo, Cao Đài, Hòa Hảo. Vậy, tại sao lại không có đại diện của 6 tôn giáo lớn này đến dự Hội nghị? Thay vào đó lại là 2 đối tượng bị truy nã? Điều này cho thấy sự vụng về trong việc cố tình ngụy tạo nguyên cớ về hình ảnh, diễn biến tình hình tôn giáo ở Việt Nam.
Đặc biệt, 2 đối tượng này đã xuyên tạc, bịa đặt và quy chụp Việt Nam không có tự do tôn giáo, các tôn giáo luôn luôn bị đàn áp. Đây là những lời lẽ bịa đặt, phản quốc. Hành động đó đã trực tiếp chứng minh sự định hướng lời nói và hành động của các tổ chức phản động trong và ngoài nước.

Hiện thực sinh động về tự do tôn giáo ở Việt Nam

Bất cứ một tôn giáo nào được coi là tôn giáo đều phải đảm bảo 3 yếu tố cơ bản: tổ chức (có nhân sự, có giáo lý, giáo luật…), có cơ sở thờ tựcó tín đồ.
Ở Việt Nam cũng như vậy. Điều 24, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam ghi rõ, mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.
Năm 2017, Nhà nước Việt Nam đã công nhận hoặc cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo cho 41 tổ chức thuộc 15 tôn giáo với khoảng 25,3 triệu tín đồ, chiếm 27% dân số, 60.799 chức sắc, 133.662 chức việc, 27.916 cơ sở thờ tự…
Đến ngày 01/11/2018, ở Việt Nam có 42 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được Nhà nước công nhận và cấp đăng ký hoạt động. Hầu hết, các tổ chức tôn giáo đã được công nhận đều có sự phát triển về số lượng tín đồ, chức sắc nhà tu hành, đều tổ chức xây dựng mới hoặc tu bổ các cơ sở thờ tự, các hoạt động tôn giáo đều tuân thủ theo giáo lý, giáo luật và trong khuôn khổ quy định của Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước.
Ngày 18/11/2016, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó đề cập rõ tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn giáo, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức. Đồng thời quy định rõ về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo; tổ chức tôn giáo; quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo.
Bên cạnh đó, hằng năm, ở Việt Nam có khoảng 8.500 lễ hội tôn giáo hoặc tín ngưỡng từ cấp quốc gia đến địa phương được diễn ra, các tín đồ tôn giáo tự do thực hiện các nghi lễ tôn giáo, bày tỏ và thực hành đức tin tôn giáo của mình.
Đặc biệt, trong xã hội hiện nay, hiện tượng con trẻ trong một gia đình tự nguyện đăng ký tham gia một khóa tu (theo từng tôn giáo cụ thể) trong một thời gian nhất định để tu tâm, dưỡng tính ngày càng được phổ biến rộng rãi. Đây là một trong những căn cứ cho thấy, mọi công dân Việt Nam luôn tự do tín ngưỡng, tôn giáo; các tôn giáo đều tự do hoạt động theo mục đích cụ thể của tôn chỉ và đều hướng đến sống tốt đời, đẹp đạo.

Lật tẩy mưu đồ chống phá của các thế lực thù địch, phản động

Có rất nhiều lý do để các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam. Trong đó, các thế lực thù địch, phản động luôn triệt để lợi dụng những sơ hở, thiếu sót trong thực thi pháp luật, sự thoái hóa biến chất của một số cán bộ hoặc lý do khác rồi quy chụp “trong chế độ xã hội chủ nghĩa không có cơ sở tồn tại của tôn giáo”.
Trái lại, quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo ở Việt Nam được Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng. Trong Nghị quyết số 25/NQ-TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa IX) xác định rõ, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc.
Bên cạnh đó, một trong những nét đặc thù của tôn giáo là “đức tin và nhu cầu đời sống tinh thần của một bộ phận nhân dân”, tôn giáo là “thuốc phiện của nhân dân”. Đức tin không cần phải chứng minh bằng cơ sở khoa học, mà luôn định hướng con người tin theo và hành động, như mệnh lệnh không lời, có sức nặng ghê gớm, có thể hiệu triệu cả nghìn người cùng tham gia hành động.
Đồng hành với nó là nhu cầu đời sống tinh thần của một bộ phận nhân dân và ngày càng lan tỏa rộng khắp xã hội với chất lượng cuộc sống của con người ngày một nâng cao. Các thế lực thù địch, phản động luôn luôn tìm mọi cách để câu móc, lôi kéo đồng bào có đạo, mua chuộc, xuyên tạc tình hình chính trị xã hội ở Việt Nam, thực hiện các hoạt động hướng dẫn hành động và kích động gây phương hại trật tự an ninh đất nước.
Như vậy, trong giai đoạn hiện nay, cần luôn cảnh giác nhận thức đầy đủ các thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng để chống phá cách mạng Việt Nam trên lĩnh vực tôn giáo. Nhiều hội nghị về tôn giáo do Mỹ tổ chức có cái nhìn phiến diện, siêu hình trong đánh giá về tình hình tôn giáo của Việt Nam, nhất là thường xuyên có sự góp mặt của những phần tử chống đối, mang danh chức sắc, tín đồ tôn giáo Việt Nam để đưa ra những ngôn từ xuyên tạc, bóp méo, quy chụp, phản ánh sai lệch tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Những ý kiến nói trên của những kẻ chống đối, đi ngược lại thực tế phát triển sống động trong đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam chỉ là những vở kịch lố bịch, trò hề, không có bất cứ tư cách nào đại diện cho cơ quan chức năng Việt Nam.
Hồng Phú

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI GÂY MẤT ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM


Bài cuối: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA CHỦ YẾU
 
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI GÂY MẤT ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM

Một là: Phát huy vai trò của các cơ quan báo chí và lực lượng truyền thông của hệ thống chính trị. Phát huy vai trò chủ động, tiên phong, dẫn dắt, định hướng của báo chí trong thông tin tích cực. Báo chí cách mạng cần khẳng định hơn nữa vai trò, vị thế của mình trong thời đại kỹ thuật số. Dòng thông tin tích cực của báo chí vẫn phải là dòng thông tin chủ lưu với thông tin chất lượng, chính xác, kịp thời, khách quan, là bộ lọc đáng tin cậy về mọi vấn đề xã hội, dư luận quan tâm. Xác định rõ, đây là môi trường mở, độc đáo, đặc biệt quan trọng nằm bên cạnh dòng chảy thông tin của truyền thông truyền thống cần được khai thác tối đa mặt tích cực, cổ vũ những giá trị tiến bộ, định hướng và tiến hành đấu tranh đối với những nhận thức, tư tưởng, quan điểm sai trái. Do đó, phải chủ động đánh giá, dự báo chính xác tình hình; chú trọng giải quyết thấu đáo các vấn đề bức xúc của người dân; khắc phục hiệu quả những hạn chế, bất cập, không để hình thành “điểm nóng”, những xu hướng (trend) tiêu cực trên mạng xã hội. Các cơ quan chức năng cần cung cấp thông tin cho báo chí một cách đầy đủ, công khai, minh bạch, kịp thời, nhất là với các vấn đề quan trọng được người dân quan tâm, không để cho các thế lực thù địch lợi dụng, chiếm lĩnh truyền thông xã hội. Những vấn đề phức tạp, nhạy cảm cần được thông tin kịp thời, định hướng dư luận; tránh chờ đến khi có kết quả xử lý cuối cùng mới thông tin. Như vậy dẫn đến một khoảng trống truyền thông tạo cơ hội cho các thế lực thù địch lợi dụng.
Hai là: Hoàn thiện cơ chế quản lý chặt chẽ truyền thông xã hội theo đúng pháp luật. Không ngừng đổi mới tư duy lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý báo chí điện tử, mạng xã hội và các loại hình truyền thông khác trên Internet theo kịp sự phát triển của công nghệ… chủ động, kiên trì thúc đẩy phát triển đúng hướng đi đôi với quản lý chặt chẽ. Trước những thách thức hiện hữu và nguy cơ tiềm ẩn đòi hỏi phải hoàn thiện mô hình và cách thức quản trị không gian mạng. Tích cực, chủ động tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia nhằm thiết lập những hàng rào bảo vệ bằng việc đưa ra những biện pháp nghiêm khắc. Bởi lẽ, “Quyền quyết sách đối với những vấn đề chính sách công liên quan tới mạng internet là chủ quyền của các nước”. Kiên trì vấn đề có tính nguyên tắc là các nhà mạng, nhà cung cấp dịch vụ, khai thác dịch vụ nhất là các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xuyên biên giới phải có trách nhiệm tuân thủ luật pháp Việt Nam, tôn trọng chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia Việt Nam. Yêu cầu các đối tác phải thể hiện sự hợp tác, tuân thủ các quy định khi vào Việt Nam như đặt cơ quan đại diện, thiết lập tính chính danh của người dùng trong đăng ký tài khoản, phối hợp tích cực để kịp thời bóc gỡ những trang mạo danh các đồng chí lãnh đạo của Đảng, nhà nước, xóa bỏ triệt để các tài khoản đưa thông tin sai sự thật... Cần coi trọng hơn các biện pháp kinh tế, yêu cầu trách nhiệm của những doanh nghiệp phải tương xứng với lợi ích mà họ được hưởng. Tích cực triển khai thực hiện Luật An ninh mạng với các chế tài đủ mạnh để răn đe, xử lý những hành vi vi phạm, gây hại như lưu trữ, cung cấp, đăng tải, phát tán tin giả, sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, nói xấu, kích động, chống phá Đảng, nhà nước trên Internet, mạng xã hội…
Ba là: Giữ nghiêm kỷ luật thông tin, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm khắc với các phần tử cơ hội chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cố tình làm lộ lọt, cung cấp thông tin nội bộ, hỗ trợ cho các phần tử mạng xã hội đưa tin sai sự thật, kích động, tấn công vào nội bộ. Đấu tranh có hiệu quả với đối tượng tung tin xấu độc. Phát huy vai trò của các cơ quan truyền thông nhà nước cung cấp thông tin kịp thời đáp ứng nhu cầu xã hội. Chủ động phản bác những quan điểm, luận điệu sai trái trên không gian mạng. Phát huy vai trò của cán bộ, đảng viên, nhân sỹ trí thức và toàn dân tham gia vào hoạt động đấu tranh với các đối tượng thù địch xuyên tạc, bịa đặt sự thật. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác vận động nhân dân ở địa bàn vùng sâu, vùng xa, nâng cao dân trí, cập nhật thông tin cho đồng bào bảo đảm thực hiện đúng yêu cầu của Thủ tướng: “Không để ai bị bỏ lại phía sau” trong lĩnh vực truyền thông.
Bốn là: Thúc đẩy các giải pháp công nghệ, các biện pháp kỹ thuật phù hợp bắt kịp với sự phát triển của internet, mạng xã hội. Khuyến khích mạng xã hội có nền tảng công nghệ trong nước phát triển, khuyến khích các cơ quan, tổ chức trong nước xây dựng mạng xã hội nội bộ. Tăng cường ứng dụng công nghệ để phòng ngừa, phát hiện, xử lý kịp thời các thông tin sai sự thật, xấu, độc có ảnh hưởng đến ổn định chính trị, xã hội. Nâng cao năng lực phân tích, điều tra, nghiên cứu công chúng, đo lường thái độ của người sử dụng internet, tham gia truyền thông xã hội đối với những vấn đề được dư luận quan tâm. Kiện toàn đội ngũ cán bộ, nhân viên và bộ máy quản lý kỹ thuật mạng và nâng cao chất lượng công cụ hỗ trợ, bảo đảm tinh thông nghiệp vụ; vững về pháp luật; giỏi về kỹ thuật bảo đảm kiểm soát chặt chẽ, giữ vững an ninh mạng trong mọi tình huống; đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Năm là: Cần chú trọng tăng cường các biện pháp tuyên truyền nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức, trách nhiệm khi tham gia các nền tảng truyền thông xã hội của mọi công dân. Giáo dục định hướng giá trị để người trẻ biết tránh khỏi các biểu hiện lệch lạc về nhận thức và hành vi; trang bị cho học sinh, sinh viên kỹ năng tự bảo vệ thông tin cá nhân, cách thức chắt lọc, tiếp nhận thông tin. Phát huy vai trò của các tổ chức và cá nhân, nhất là những người điều hành website, blog, fanpage, các KOLs, influencers, người trẻ trong xây dựng môi trường internet, mạng xã hội lành mạnh. Mỗi cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên tham gia mạng xã hội phải giữ vai trò là lực lượng nòng cốt đăng tải, chia sẻ, lan tỏa thông tin tích cực và xem đây là giải pháp thường xuyên, lâu dài./.