KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, THỜI ĐẠI CỦA CHIẾN THẮNG 30 THÁNG 4

Năm nay, trong những ngày hướng đến kỷ niệm Chiến thắng lịch sử vĩ đại 30/4/1975, nhân dân ta đón mừng sự kiện này với nhiều niềm vui mới. Theo báo cáo của Chính phủ, kinh tế Việt Nam năm 2018 khởi sắc trên cả ba khu vực sản xuất, cung - cầu của nền kinh tế cùng song hành phát triển.

NHẬN DIỆN VÀ NGĂN NGỪA THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG LÒNG YÊU NƯỚC ĐỂ KÍCH ĐỘNG NGƯỜI DÂN XUỐNG ĐƯỜNG BIỂU TÌNH, GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Người yêu nước chân chính là người biết sử dụng pháp luật, đạo đức, truyền thống tốt đẹp để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, đồng thời phải biết tôn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích chính đáng của người khác. Nhận diện được phương thức, thủ đoạn lợi dụng lòng yêu nước để kích động nhân dân làm việc xấu chính là nhằm đưa ra các biện pháp xử lý phù hợp, đồng thời tránh được sự lợi dụng đó để gây ra rối loạn xã hội, phức tạp tình hình.

Thông cáo Báo chí Kỳ họp 32 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương

Từ ngày 03 đến 06/12/2018 tại Hà Nội, Ủy ban kiểm tra Trung ương đã họp kỳ 32. Đồng chí Trần Cẩm Tú, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Trung ương chủ trì kỳ họp.

UBKTTW kết luận vụ AVG: Sai phạm của ông Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn là rất nghiêm trọng

UBKTTW vừa họp kỳ 26 kết luận vụ AVG có những vi phạm của Ban cán sự đảng Bộ TT-TT, ông Nguyễn Bắc Son, ông Trương Minh Tuấn, ông Phạm Đình Trọng, của Ban Thường vụ Đảng ủy Mobifone và các ông Lê Nam Trà, Cao Duy Hải là rất nghiêm trọng.

Bốn kỳ vọng thay đổi lớn về công tác cán bộ sau 4 ngày Hội nghị T.Ư 7

Sau 4 ngày làm việc, Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đã thảo luận nhiều nội dung quan trọng được dư luận đặc biệt quan tâm, trong đó có công tác cán bộ, bởi đây là vấn đề “nóng” trong tình hình hiện nay.

Thứ Tư, 20 tháng 12, 2023

ĐIỆN BIÊN PHỦ TRÊN KHÔNG: 6 NĂM CHUẨN BỊ CHO 12 NGÀY ĐÊM SÁNG TẠO VÀ CHIẾN THẮNG

 Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, đúng đắn của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng trong công tác chuẩn bị, thực hành Chiến dịch phòng không Hà Nội - Hải Phòng 1972, quân và dân ta bước vào trận quyết chiến chiến lược với lực lượng không quân hùng mạnh của đế quốc Mỹ trong tâm thể chủ động và tự tin.

Để chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược trên bầu trời Hà Nội, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đã được Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo từ rất sớm. Năm 1962, khi máy bay B.52 còn chưa tham chiến ở Việt Nam, với nhãn quan chính trị nhạy bén và tầm nhìn chiến lược, trên cơ sở nghiên cứu tìm hiểu âm mưu, thủ đoạn, quy luật sử dụng lực lượng không quân Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự báo đế quốc Mỹ sẽ sử dụng loại máy bay này ở Việt Nam và căn dặn: "…phải theo dõi chặt chẽ và thường xuyên quan tâm đến loại máy bay B.52 này".

Đúng như dự báo của Người, ngày 18/6/1965, lần đầu tiên đế quốc Mỹ sử dụng B.52 ném bom khu vực Bến Cát (tây bắc thành phố Sài Gòn). Người đã khẳng định ý chí sắt đá của Đảng và cả dân tộc: "Dù đế quốc Mỹ có lắm súng nhiều tiền, dù chúng có B.57, B.52 hay “bê” gì đi nữa ta cũng đánh, từng ấy máy bay, từng ấy quân Mỹ chứ nhiều hơn nữa ta cũng đánh mà đánh là nhất định thắng".
Ngay sau khi đế quốc Mỹ sử dụng máy bay B52 đánh ra Quảng Bình (4/1966), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giao nhiệm vụ cho Quân chủng Phòng không - Không quân: “B.52 đã ném bom miền Bắc, phải tìm cách đánh cho được B.52. Trách nhiệm này Bác giao cho các chú phòng không, không quân”. Đến cuối năm 1967, với tầm chiến lược, sáng suốt, Người khẳng định: "Sớm muộn đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B.52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua mới chịu thua... Ở Việt Nam, Mỹ nhất định thua, nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua ở đây” (Hà Nội).
Thực hiện chỉ thị, lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, công tác chỉ đạo chuẩn bị lực lượng, xây dựng thế trận phòng không, không quân của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng được tiến hành từ rất sớm. Trước khi đế quốc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc (2/1965), Quân chủng Phòng không - Không quân chỉ có 12 trung đoàn pháo cao xạ, 1 trung đoàn không quân chiến đấu và 3 trung đoàn radar với tổng quân số 18.244 người, trang bị chủ yếu là các loại vũ khí, khí tài cũ; đến năm 1972, Quân chủng Phòng không - Không quân đã có đầy đủ 4 binh chủng: Không quân, Tên lửa, Radar, Pháo phòng không, với tổng quân số 68.393 người, được trang bị nhiều loại vũ khí, khí tài hiện đại, có thể bắn rơi được tất cả các máy bay của quân đội Mỹ tham chiến ở Việt Nam.
Cùng với đó, lực lượng phòng không tầm thấp của các đơn vị binh chủng hợp thành và hàng chục vạn dân quân, tự vệ được trang bị súng, pháo phòng không. Lực lượng phòng không, không quân phát triển nhanh chóng đã tạo điều kiện để Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng chỉ đạo xây dựng thế trận phòng không nhân dân nhiều tầng, nhiều lớp, có thể đánh địch từ xa đến gần ở mọi hướng, mọi độ cao, tập trung trên hướng chủ yếu, bảo vệ mục tiêu chủ yếu, đặc biệt là bảo vệ Thủ đô Hà Nội.



Thực hiện tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Muốn bắt cọp phải vào tận hang, từ giữa năm 1966, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu đã chỉ đạo Quân chủng Phòng không - Không quân đưa các đơn vị tên lửa, radar, không quân, trinh sát điện tử, cùng các "Đoàn công tác B" của Bộ Quốc phòng vào chiến trường Quân khu 4 để phối hợp chiến đấu và cùng nghiên cứu cách đánh B.52.
Những kinh nghiệm thực tiễn quý báu đánh B.52 đã giúp cho lực lượng phòng không, không quân nắm rõ hơn về quy luật hoạt động, tìm ra nguyên nhân cơ bản ta chưa bắn rơi tại chỗ B.52. Đây là những kinh nghiệm vô cùng quý giá sau nhiều năm chiến đấu với không quân địch để Quân chủng Phòng không - Không quân nghiên cứu biên soạn tài liệu “Cách đánh B.52".
Tháng 1/1969, Quân chủng Phòng không - Không quân đã biên soạn tài liệu “Dự thảo cách đánh máy bay chiến lược B.52". Mặc dù tài liệu còn đơn giản, nhưng bước đầu đã giúp các đơn vị hiểu biết về tính năng, kỹ chiến thuật và những quy luật hoạt động của B.52, cách đánh B.52 trong điều kiện thông thường.
Sau đó, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng tiếp tục chỉ đạo và tăng cường nhiều cán bộ tác chiến, huấn luyện để cùng Quân chủng không - Không quân nghiên cứu, chỉnh sửa, bổ sung.
Tháng 10/1972, tài liệu "Cách đánh B.52 (Cẩm nang bìa đỏ) được biên soạn xong và thông qua Bộ Tư lệnh Quân chủng. Tài liệu đã đi sâu giải quyết những nội dung cơ bản về xạ kích, về cách đánh B.52 đạt hiệu quả cao nhất.... làm cho cán bộ, chiến sĩ tín tưởng vào khí tài, cách đánh và khả năng bắn rơi tại chỗ B.52, từ đó nâng cao chất lượng huấn luyện.
Cùng với chỉ đạo Quân chủng Phòng không - Không quân nghiên cứu cách đánh máy bay B.52, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng sớm chỉ đạo ngành Tình báo quân sự tìm hiểu về âm mưu, thủ đoạn, phương thức tác chiến bay B.52 đánh phá miền Bắc.
Cùng với tin tức của điệp báo chiến lược, lực lượng trinh sát kỹ thuật thu thập được nhiều thông tin quan trọng về hoạt động của không quân địch trong quá trình chuẩn bị đưa B.52 đánh ra Hà Nội (12/1972). Những tin tức tình báo tin cậy, quan trọng trên là cơ sở để Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo lực lượng phòng không, không quân biên soạn tài liệu, xây dựng kế hoạch, sớm chuyển cấp sẵn sàng chiến đấu đón đánh B.52 địch.
Cuối năm 1971, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương nhận định “Năm 1972 hoặc là địch sẽ rút nếu đạt được giải pháp; nếu chưa được chúng có thể tập trung không quân đánh phá. Ta cần có biện pháp đề phòng”. Ngày hôm sau, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chỉ thị “B.52 không chỉ đánh ở miền Nam. Đến mức độ nào đó cũng có thể đánh vào Thủ đô Hà Nội. Quân chủng Phòng không - Không quân phải nghiên kỹ đối tượng này”.
Đầu năm 1972, quân và dân ta mở cuộc tiến công chiến lược trên chiến trường miền Nam và giành được những thắng lợi to lớn, làm thất bại chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ. Chính quyền Nixon phải “Mỹ hóa trở lại", tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai ra miền Bắc.
Ngày 16/4/1972, đế quốc Mỹ mở đầu bước leo thang chiến tranh phá hoại bằng việc sử dụng không quân đánh phá Hà Nội, Hải Phòng. Đặc biệt, chúng sử dụng cả máy bay B.52 đánh phá Hải Phòng. Trước tình hình trên, Quân ủy Trung ương đã ra chỉ thị kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại mới của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc.
Ngày 28/6, sau khi nghe Đại tá Lê Văn Tri, Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân báo cáo tình hình chiến đấu, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ thị: “Sắp tới, địch đánh mạnh hơn, ác liệt hơn... B.52 sẽ đánh đêm, gây nhiễu nặng. Vừa qua, ta mới đánh được những trận riêng lẻ, nay ta phải kiên quyết tổ chức những trận hiệp đồng nhiều binh chủng, đánh địch đau hơn nữa, nhất là vào những thời gian cao điểm...”.
Đầu tháng 7/1972, Bộ Tổng Tham mưu mở hội nghị (phạm vi hẹp) bàn chuyên đề về đánh B.52. Kết luận hội nghị, Phó Tổng Tham mưu trưởng Phùng Thế Tài nhấn mạnh: "Bộ đã sớm có chỉ thị nghiên cứu đánh rơi B.52. Nay tuy giặc lái lo sợ phải bay ra phía Bắc, nhưng Mỹ sẽ đem B.52 đến ném bom ngoài Bắc, kể cả Hà Nội, Hải Phòng...
Đối với ta, đánh trúng, đánh rơi B.52 là nhiệm vụ cấp bách, là một yêu cầu cao về quân sự, chính trị, ngoại giao... Khi B.52 ra ngoài Bắc này thì tên lửa, không quân đều đánh tốt hơn, còn dùng cả pháo phòng không 100mm. Radar phát hiện được B.52; cần dùng cả các loại máy cũ như P8 hay 406...".
Ngay sau đó, Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị Quân chủng khẩn trương bổ sung hoàn thiện phương án tác chiến, huấn luyện bộ đội đánh B.52 trong các tình huống phức tạp.
Đây là những chỉ thị, hướng dẫn rất quan trọng để Quân chủng Phòng không - Không quân bổ sung vào tài liệu "Cách đánh B.52" và xây dựng kế hoạch tác chiến. Được sự chỉ đạo, giúp đỡ của Bộ Tổng Tham mưu, tháng 9/1972, Quân chủng Phòng không - Không quân đã hoàn thành việc xây dựng “Kế hoạch Tác chiến phòng không sẵn sàng đánh bại địch tập kích chiến lược bằng máy bay B.52 vào Hà Nội, Hải Phòng”.
Cùng với chỉ đạo nghiên cứu cách đánh máy bay B.52, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng còn chỉ đạo việc tổ chức sử dụng lực lượng, bố trí đội hình chiến đấu tập trung để đánh đối tượng chủ yếu là máy bay B.52. Do vậy, khi triển khai đội hình chiến đấu bảo vệ Hà Nội, ta đã cơ động toàn bộ lực lượng tên lửa vào vòng trong theo phương pháp “chốt vòng trong đánh địch trực tiếp bảo vệ mục tiêu" để tập trung nhiều tiểu đoàn tên lửa cùng đánh địch trên một đường bay.
Đây là một trong những yếu tố quyết định để Bộ đội Tên lửa bắn rơi 36/81 máy bay các loại, trong đó có 29 chiếc B.52. Toàn bộ 16 chiếc máy bay B.52 rơi tại chỗ đều do Bộ đội Tên lửa bắn.
Ngày 24/11/1972, Thượng tướng Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng đã ký phê chuẩn “Kế hoạch Tác chiến phòng không chống cuộc tập kích đường không bằng máy bay chiến lược B.52 vào Hà Nội, Hải Phòng và các vùng phụ cận" và chỉ thị cho Bộ Tư lệnh hoàn thành mọi công tác chuẩn bị chiến đấu trước ngày 3/12/1972.
Ngay sau khi Tổng Tham mưu trưởng phê chuẩn kế hoạch, ngày 25/11/1972, Quân ủy Trung ương ra Chỉ thị Tăng cường sẵn sàng chiến đấu. Chỉ thị nêu rõ: "... Sắp tới chúng ta cần đề phòng địch có thể có những hành động phiêu lưu quân sự mới. Chúng có thể ném bom bắn phá trở lại từ vĩ tuyến 20 trở ra với mức độ ác liệt hơn trước. Chúng có thể liều lĩnh dùng máy bay B.52 đánh phá các trọng điểm Hà Nội, Hải Phòng, các chân hàng, đầu mối giao thông... Các đơn vị phải hết sức đề cao cảnh giác, kiểm tra và hoàn chỉnh thêm công tác sẵn sàng chiến đấu".
Ngày 27/11/1972, Bộ Quốc phòng nhận định: Địch có nhiều khả năng đánh lại miền Bắc với mức độ ác liệt hơn, kể cả dùng B.52 đánh Hà Nội, Hải Phòng và ra lệnh cho các lực lượng vũ trang tăng cường chuẩn bị chiến đấu. Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị: "Nhiệm vụ trọng tâm đột xuất trước của Quân chủng Phòng không - Không quân là tập trung mọi khả năng nhằm đối tượng chính là máy bay B.52 mà tiêu diệt".
Ngày 6/12/1972, Bộ Tổng Tham mưu họp với các quân khu, quân chủng, binh chủng, các cơ quan, nhà trường kiểm tra mọi công tác chuẩn bị cho tác chiến phòng không sẵn sàng chiến đấu bảo vệ miền Bắc, kể cả khi địch sử dụng máy bay B.52 đánh phá Hà Nội, Hải Phòng.
Theo dõi sát các hoạt động đấu tranh chính trị, quân sự, ngoại giao và thông qua các tin tức tình báo, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã phán đoán chính xác thời điểm đế quốc Mỹ sử dụng máy bay B.52 ném bom Hà Nội.
Ngày 17/12/1972, Bộ Tổng Tham mưu lệnh cho Quân chủng Phòng không Không quân và các lực lượng phòng không miền Bắc chuyển lên trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất. Đến 16h30 ngày 18/12/1972 (3 giờ trước khi B.52 dội bom xuống Hà Nội), Bộ Tổng Tham mưu đã thông báo cho Quân chủng "có nhiều tốp B.52 đã cất cánh từ sân bay Anderson, đảo Guam đến đánh miền Bắc".
Toàn bộ lực lượng của Quân chủng Phòng không - Không quân và lực lượng vũ trang miền Bắc được lệnh báo động chiến đấu. Trước khi chiến dịch bắt đầu, các đồng chí chỉ huy cao nhất của Bộ Quốc phòng đã có mặt tại Tổng hành dinh để trực tiếp chỉ đạo chiến dịch.
Quá trình tác chiến chiến dịch, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu luôn tổ chức theo dõi chặt chẽ hoạt động của địch, của ta để kịp thời chỉ đạo, hướng dẫn các lực lượng tham gia chiến dịch chiến đấu đạt hiệu quả cao.
Ngay sau khi ta giành thắng lợi lớn trong trận then chốt mở đầu đêm 18/12, Thường vụ Quân ủy Trung ương đã họp và quyết nghị: “... Mỹ đã mở cuộc tập kích lớn bằng không quân vào Hà Nội, Hải Phòng. Chúng đã sử dụng máy bay chiến lược B.52, đánh ồ ạt, quy mô lớn, ác liệt và sẽ đánh phá liên tục trong một thời gian ngắn. Nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang ta, đặc biệt là bộ đội phòng không, không quân phải cùng toàn dân quyết tâm đánh bại bước leo thang rất nghiêm trọng của địch...”.
Tiếp đó Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị cho Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân: “Bộ đội phòng không, không quân phải kiên quyết đánh thắng, bắn rơi tại chỗ nhiều máy bay B.52, trước mắt phải nhanh chóng rút kinh nghiệm, khẩn trương khắc phục mặt còn yếu, phát huy sức mạnh của không quân, quyết tâm tạo thời cơ và bảo đảm tốt cho không quân ta bắn rơi máy bay...
Sáng 21/12/1972, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp chỉ thị: “Thắng lợi của chúng ta trong những ngày qua là rất lớn, cần phải phát huy hơn nữa; từ hôm nay trở đi, địch sẽ tìm và đánh trận địa tên lửa ác liệt, ta phải tìm mọi cách bảo vệ tên lửa để tiêu diệt B.52, phải bảo đảm cho tên lửa đánh liên tục, cố gắng phát huy tác dụng của không quân”.
Sáng 26/12, khi làm việc với Đại tá Lê Văn Tri, Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân, Thượng tướng Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng kết luận: “... Tuy chúng có bị tổn thất, nặng nhất là B.52, bọn giặc lái có hoang mang, lo sợ nhưng bọn cầm đầu chưa chịu thất bại, mà liều lĩnh hơn, tập trung lực lượng đánh lớn hơn vào Hà Nội, Hải Phòng”.
Đêm 27, 28/12/1972, Phó Tổng Tham mưu trưởng Phùng Thế Tài trực tiếp xuống Sở Chỉ huy Quân chủng cùng Bộ Tư lệnh chỉ đạo Bộ đội Không quân đánh máy bay B.52. Sự chỉ đạo của Phó Tổng Tham mưu trưởng đã giúp lực lượng không quân bắn rơi liên tiếp 2 máy bay B.52.
Tối 29/12/1972, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đến Sở Chỉ huy Quân chủng Phòng không - Không quân động viên cán bộ, chiến sĩ và nhân viên: “Các anh em đánh giỏi lắm! Bị thất bại nặng nề thế này, Nixon sẽ không chịu nổi và sẽ phải sắp ngừng cuộc”. Đại tướng cũng chỉ đạo Bộ Tư lệnh Quân chủng tập trung đạn tên lửa đánh một trận quyết định buộc địch phải ngừng cuộc tập kích vào Hà Nội.
Được sự chỉ đạo của Đại tướng Tổng Tư lệnh, Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân chỉ thị Sư đoàn phòng không 361 đánh những trận cuối cùng, không hạn chế số lượng đạn tên lửa để bắn rơi nhiều B.52 địch. Đúng như chỉ đạo của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, bằng trận đánh tiêu diệt chiếc B52 cuối cùng đêm 29/12/1972, đế quốc Mỹ đã phải tuyên bố chấm dứt cuộc tập kích đường không chiến lược, ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra. Chiến dịch phòng không Hà Nội - Hải Phòng 1972 giành thắng lợi to lớn.
Như vậy, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, đúng đắn của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng trong công tác chuẩn bị, thực hành Chiến dịch phòng không Hà Nội - Hải Phòng 1972, quân và dân ta bước vào trận quyết chiến chiến lược với lực lượng không quân hùng mạnh của đế quốc Mỹ trong tâm thể chủ động và tự tin.
Ta chủ động, tự tin vì đã có thời gian dài tìm hiểu về địch, tiến hành các công tác chuẩn bị về xây dựng lực lượng, thế trận, phương án chiến đấu, nghiên cứu cách đánh B.52, huấn luyện cho bộ đội..., vì đã dự kiến chính xác về thời gian, khu vực, mục tiêu đánh phá của địch nên đã chuyển cấp kịp thời đưa toàn bộ lực lượng phòng không, không quân miền Bắc vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất để đánh địch./.
Thượng tướng, Tiến sĩ Lê Huy Vịnh
Lược trích từ cuốn “Chiến thắng Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không 1972” - Sức mạnh Việt Nam và tầm vóc thời đại”

BẾN KHÔNG CHỒNG...

Ở xã Thụy Liên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình có một bến sông như bao bến sông khác của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Ngày xưa bến sông này có tên là Bến Đình Đoài, bây giờ được đặt một tên mới, mà được dân làng thống nhất gọi tên là "BẾN KHÔNG CHỒNG".


Nơi đây vào thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước dân làng đã tiễn đưa 1.500 thanh niên trai tráng của làng lên đường tòng quân giết giặc, cứu nước. Sau ngày 30-4-1975, có 230 người không trở về quê hương, các Anh đã nằm lại rải rác các chiến trường, để lại nỗi buồn cho mẹ già và những người vợ trẻ.




Hằng ngày, các chị ra bến sông xưa để ngóng chờ tin chồng. Ngày tháng qua đi, từ một thiếu nữ nay đã trở thành những Bà lão mất rồi.
Bến sông xưa có tên bình dị, nay mang tên mới với bao nỗi buồn BẾN KHÔNG CHỒNG, nghe xót xa mà đau nhói trong tim.

Nhà văn Dương Hướng, người con của quê hương đã viết một tiểu thuyết cùng tên, VTV cũng đã có phóng sự về Bến sông này.
Điều đặc biệt là những người vợ Liệt sĩ ở đây hầu như là không đi lấy chồng. Họ ở vậy thờ chồng nuôi con và phụng dưỡng Cha mẹ chồng. Có rất nhiều người không có con họ cũng không đi bước nữa, họ lấy niềm vui là hàng ngày ra bến sông xưa ngóng chờ một nỗi xa xôi, với ước mơ một ngày nào đó, Người xưa khoác ba lô trở về.

Trên đất nước mình không biết có bao nhiêu bến sông như thế này, biết bao người vợ Liệt sĩ hàng ngày ra bến sông đón chồng trong niềm hy vọng không phai mờ rằng: Rồi có một ngày chinh chiến tàn, các anh trở lại bến sông xưa.

Có một mùa hoa cải,
Chờ anh trong mê mải,
Chờ anh bến sông xưa
Yêu em anh giữ câu thề
Đánh xong giặc Mỹ, anh về với em.

Như Khánh Trần

CẨN TRỌNG VỚI TRÀO LƯU "CHỮA LÀNH TRÁI TIM", "CHỮA LÀNH TRÁI TIM"!

“Chữa lành” trái tim, “chữa lành” tâm hồn, quay về với chính mình, kết nối với “đứa trẻ bên trong”…, đó là những lời quảng cáo rất quen thuộc về dịch vụ “chữa lành” đang nở rộ hiện nay. Vậy, ai có thể thực hiện việc “chữa lành”? Dịch vụ này có cần phải quản lý hay không?

Muôn kiểu “chữa lành”

Với nhu cầu cần “chữa lành” vết thương tinh thần do cuộc hôn nhân rơi vào thời kỳ khủng hoảng, chị Nguyễn Ngọc, 30 tuổi, trú tại quận Hoàn Kiếm, Hà Nội đã đến một trung tâm chuyên chữa lành do một “coach” (người huấn luyện) đứng đầu có tên TA, người đã có một số video đăng tải trên mạng internet liên quan đến “chữa lành” như “chữa lành” tâm hồn, “chữa lành” trái tim, “hành trình yêu thương”… Tại đây, chị Ngọc được nhân viên trung tâm trao đổi, hỏi han về tình trạng hôn nhân hiện tại và vấn đề cần “chữa lành”.

Sau khoảng 15 phút ghi nhận những thông tin cần thiết, nhân viên này cho biết, trung tâm sẽ có khóa “chữa lành” kéo dài 3 tháng dành cho chị Ngọc với chi phí là 15 triệu đồng. Trong 3 tháng, chị Ngọc sẽ được một chuyên gia tâm lý “kèm” thông qua room online để có thể “chữa lành” tâm hồn, trị liệu tâm lý và dần dần thoát khỏi được những áp lực. Trong các tình huống cụ thể, chị Ngọc có thể liên hệ với chuyên gia tâm lý để chuyên gia tâm lý đưa ra lời khuyên cụ thể cho chị. Trong suốt 3 tháng, chị Ngọc còn được tham gia nhiều buổi trị liệu tâm lý, miễn phí một số giáo trình học.




Nhân viên trung tâm này cũng cho biết, một khóa chữa lành có thể kéo dài lên đến 5, 6 tháng giúp người chữa lành có thể cân bằng được cảm xúc, cân bằng được cuộc sống. Tuy nhiên, chuyên gia tâm lý sẽ “kèm” chị Ngọc trong suốt quá trình lại không phải là “coach” TA - người được trung tâm quảng cáo, mà lại là những người được đào tạo về “chữa lành”, còn được đào tạo như thế nào thì chị Ngọc không được cho biết cụ thể.

Chỉ cần lên mạng gõ cụm từ "chữa lành" sẽ cho hơn vô số các kết quả đủ để thấy trào lưu "chữa lành" đang được nhiều người tìm kiếm. Chúng ta cũng rất dễ bắt gặp cụm từ "chữa lành" như "du lịch chữa lành", "điện ảnh chữa lành", "âm nhạc chữa lành"… Thông thường, khi tìm đến với các dịch vụ “chữa lành”, người có nhu cầu “chữa lành” sẽ không được gặp gỡ ngay chuyên gia mà sẽ được được các nhân viên ghi nhận một số thông tin cơ bản của cá nhân như tên, tuổi, giới tính, tình trạng hôn nhân, các vấn đề đang gặp phải… Sau đó, người có nhu cầu “chữa lành” sẽ được gửi báo giá về các gói “chữa lành”.

Mỗi trung tâm lại đưa ra các mức giá khác nhau nhưng đều từ vài triệu đồng cho đến cả chục triệu đồng. Đặc biệt, nếu có các chuyên gia “chữa lành” đồng hành hằng ngày thông qua việc nhắn tin, điện thoại thì giá tiền sẽ cao hơn. Trong khi, người tham gia “chữa lành” thông thường sẽ không được tiếp cận nhiều thông tin về các chuyên gia, các "coach" “chữa lành”. Họ được giới thiệu rất chung chung là đã được đào tạo bài bản, có trình độ chuyên môn về Tâm lý học.

Không quản lý, sẽ gây nhiều hệ lụy

Có lẽ, trong thời điểm hiện nay, đặc biệt là sau đại dịch COVID-19, nhiều thông tin tiêu cực xuất hiện, áp lực công việc, trọng trách vai trò trong đời sống gia đình… khiến người trẻ ngày càng quan tâm nhiều hơn tới các vấn đề sức khỏe tinh thần và họ bắt đầu tìm kiếm đến các dịch vụ “chữa lành” để được xoa dịu những tổn thương tâm lý, những áp lực đang phải đương đầu.

Xét dưới góc độ Tâm lý học, theo TS. Trần Thu Hương, Chủ nhiệm bộ môn Tâm lý học Xã hội, Khoa Tâm lý học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, “chữa lành” chính là một hoạt động trợ giúp tâm lý, trong đó nhà tham vấn tâm lý với sự hiểu biết sâu sắc về các hệ thống lý thuyết cùng các kỹ thuật tham vấn, trị liệu sẽ tiến hành hoạt động hỗ trợ giúp cho người có những vấn đề khó khăn và nan giải tìm được sự cân bằng trong cuộc sống và trong công việc. Tất cả chúng ta ở một thời điểm nào đó trong cuộc đời đều có thể cần đến sự trợ giúp tâm lý. “Âm nhạc chữa lành”; “Hội họa chữa lành”; “Phim ảnh chữa lành”; “Du lịch chữa lành”,… là những hình thức trị liệu tâm lý giúp cho những người có tổn thương, ẩn ức, đau khổ, mất cân bằng giải tỏa được những cảm xúc tiêu cực, tìm thấy lại niềm vui, động lực, cảm hứng để sống, làm việc và cống hiến.

Theo TS Trần Thu Hương, trong đời sống cá nhân, bản thân mỗi người đều có khả năng tự chữa lành cho chính mình. Thực tế, hiện nay đã xuất hiện những chuyên gia “chữa lành” tự phong, họ nhận hỗ trợ cho người khác bằng chính những kinh nghiệm, trải nghiệm mà họ có được sau khi đã tự vượt qua những giai đoạn khó khăn, bất ổn về tâm lý của bản thân. Chính họ tự mang kinh nghiệm của mình để thực hiện "sứ mệnh chữa lành" cho người khác. Tuy nhiên, khi chúng ta đã sử dụng những kinh nghiệm của cá nhân để áp dụng cho những người khác, cần phải hết sức thận trọng, không nên coi nó là độc tôn, duy nhất, hiệu quả nhất trong quá trình “chữa lành”.

TS Trần Thu Hương cũng cho rằng, đang xuất hiện tình trạng thương mại hóa dịch vụ “chữa lành” khi ngày càng nhiều người quan tâm đến các vấn đề, sức khỏe tâm thần. Hoạt động “chữa lành” là một trong những kỹ thuật đã được ứng dụng trong Tâm lý học Lâm sàng, và phải được thực hiện bởi những người được đào tạo, có bằng cấp chuyên môn và cần tuân thủ đạo đức hành nghề. TS Trần Thu Hương cho rằng, lĩnh vực này cần có sự quản lý về pháp luật.

Liên quan đến các dịch vụ “chữa lành” đang nở rộ hiện nay, TS Nguyễn Huy Quang, nguyên Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Y tế cho rằng, “chữa lành” không phải là một phương pháp chữa bệnh vì nó không phải là bệnh. Như người có dấu hiệu bệnh tâm thần (động kinh, hoang tưởng…), hoặc rối loạn tâm thần (trầm cảm, strees, lo âu) phải do các bác sĩ chuyên khoa, thầy thuốc có chứng chỉ hành nghề khám, chẩn đoán và điều trị bằng dùng thuốc hoặc không dùng thuốc.

Chuyên gia cũng cho hay, hiện nay nở rộ các lớp “chữa lành”, thậm chí có người còn mạo nhận là chuyên gia tâm lý, bác sĩ tâm lý, thu tiền giá cao. “Chữa lành” không còn đơn lẻ nữa mà nó trở thành trào lưu, nếu tiếp tục để nó tự phát nở rộ mà không có biện pháp quản lý, sẽ gây ra nhiều ảnh hưởng và hệ luỵ cho người dân. Theo đề xuất của chuyên gia, cần phải quản lý hoạt động này với sự xem xét của nhiều bộ, ngành. Chẳng hạn, Ban Tôn giáo Chính phủ phải xem các lớp “chữa lành” tự mở có phải của một giáo phái nào không; Bộ Văn hoá-Thể thao-Du lịch quản lý về văn hoá vì có yếu tố liên quan đến thần linh xem có ảnh hưởng đến tự do tín ngưỡng hay không; Bộ Công an phải xác định xem những hành vi này có ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, lừa đảo hay không để có hướng giải quyết...

“Các bộ, ngành phải cùng vào cuộc xem xét để xác định nó là loại hình nào để cùng phối hợp quản lý. Vấn đề này cần phải có sự quản lý để làm lành mạnh xã hội. Sau khi xem xét, nếu phương pháp “chữa lành” mang tính tích cực thì phải đưa vào quản lý, còn nếu mang lại quả tiêu cực thì cần phải loại bỏ”, TS Nguyễn Huy Quang đề xuất.

Vị chuyên gia này cũng đưa ra khuyến cáo với người dân, để biết đó có phải là bệnh hay không, người dân phải đi khám bởi các bác sĩ chuyên khoa tâm thần, có chứng chỉ hành nghề, đừng nên tin và nghe theo những phương pháp chưa có căn cứ khoa học, sẽ làm mất đi cơ hội điều trị nếu có bệnh.

Nguyễn Hương - Trần Hằng

Chú thích ảnh: Yoga là một bộ môn được nhiều người có nhu cầu “chữa lành” tìm đến 

Thứ Năm, 19 tháng 10, 2023

Freedom House lại tái diễn luận điệu xuyên tạc về quyền tự do Internet tại Việt Nam

Những ngày qua, một số website hải ngoại đưa thông tin về việc Freedom House ngày 16/10/2024 công bố báo cáo về tự do Internet toàn cầu, trong đó tiếp tục xếp Việt Nam vào nhóm không có tự do Internet với thang điểm tự chấm 22/100 điểm. Bảng báo cáo trên một lần nữa thể hiện bản chất cực đoan của một tổ chức tự gắn mác “vì nhân quyền”, “vì tự do”, bất chấp những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam về thúc đẩy quyền con người.

Freedom House và những “bàn tay đen” ẩn sau
Theo chu kỳ hằng năm, tổ chức phi chính phủ có tên Freedom House có trụ sở tại Washington, D.C Hoa Kỳ lại đưa ra báo cáo thường niên mang tên “Freedom in the World” để chỉ về mức độ tự do dân chủ ở các quốc gia và lãnh thổ trên toàn thế giới. Qua đó, tổ chức này tự đánh giá, xếp hạng tự do và dân chủ của hơn 200 nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Năm nay, trong cái gọi là “Báo cáo thường niên năm 2023” vẫn không có gì lạ khi Freedom House vẫn theo lối cũ, động cơ và cách làm cũ để xếp Việt Nam vào nhóm cuối danh sách (thang điểm 22/100 và không có gì biến động như các năm 2020, 2021, 2022). Theo như mức điểm tự chấm của tổ chức trên thì Việt Nam được liệt kê vào nhóm “các quốc gia không có tự do trên Internet”
Theo tuyên bố được đưa ra thì mục đích hoạt động của Freedom House là “theo dõi tiến trình dân chủ hóa toàn cầu, khảo sát và nghiên cứu tình hình thực thi các quyền tự do chính trị và dân sự tại các quốc gia trên thế giới”, là “một tiếng nói minh bạch cho dân chủ và tự do trên thế giới”. Tuy nhiên, theo như các thông tin công khai thì nguồn ngân sách hoạt động chủ yếu của Freedom House đến từ Hoa Kỳ và các quốc gia phương Tây. Do đó, có thể thấy tổ chức Freedom House cũng không có gì khác biệt với các tổ chức phi chính phủ mang danh “vì nhân quyền” khác thường xuyên có hoạt động xuyên tạc về tình hình tự do dân chủ, nhân quyền của Việt Nam và nhiều nước trên thế giới như tổ chức theo dõi nhân quyền (Human Rights Watch – HRW); tổ chức Ân xá quốc tế (Amnesty International – AI)… cũng nhận nguồn ngân sách từ Hoa Kỳ và các quốc gia phương Tây.
Qua đó, tiêu chuẩn đánh giá về nhân quyền của các tổ chức này phù hợp với các chính sách và lợi ích của những chính phủ đã chi tiền để hoạt động. Cho nên, dù mang danh các tổ chức phi chính phủ “vì nhân quyền” nhưng các tổ chức trên không thể hiện lập trường độc lập mà bị chi phối bởi quan điểm chính trị và lập trường của quốc gia đã rót tiền nuôi mình. Từ việc bị chi phối bởi nguồn kinh phí hoạt động, có thể thấy các tổ chức trên thường đưa ra các báo cáo về nhân quyền định kỳ hằng năm theo các đánh giá, xếp hạng sai sự thật, mang màu sắc chính trị và chủ quan áp đặt.
Vì vậy, việc tổ chức Freedom House xây dựng và công bố các báo cáo đánh giá, xếp hạng hằng năm như: Báo cáo tự do trên thế giới, báo cáo tự do mạng Inteernet, báo cáo tự do và truyền thông… đã khiến cho nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế trên thế giới phản ứng về độ tin cậy cũng như độ trung thực của tổ chức này. Các tổ chức tự xưng “vì nhân quyền” như Freedom House, HRW hay AI và nhiều tổ chức khác liên tục nhận những chỉ trích và cấm hoạt động tại các quốc gia như Đức, Thái Lan, Trung Quốc, Nga, Cuba, Sri Lanka, Triều Tiên, Ethiopia, Syria… do đưa ra những thông tin không đúng sự thật và tiến hành các hoạt động với nhiều hình thức khác nhau để can thiệp vào nội bộ, làm phức tạp tình hình ở các quốc gia trên.
Nhìn vào các hoạt động của tổ chức này cho thấy sự bất hợp lý và ý đồ bôi nhọ, hạ uy tín, hình ảnh của Việt Nam và nhiều quốc gia khác trên thế giới đối với lĩnh vực dân chủ, nhân quyền. Điều đó càng thể hiện rõ hơn ở một tổ chức không hiện diện ở Việt Nam, không nắm được tình hình thực tiễn về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam song lại tự cho mình quyền đưa ra các báo cáo, bảng đánh giá về dân chủ, nhân quyền một cách suy diễn, áp đặt. Đồng thời, thông qua bản báo cáo, chấm điểm trên của Freedom House có thể thấy bàn tay của các thế lực thù địch, các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài và số đối tượng chống đối ở trong nước đã cung cấp các thông tin xuyên tạc, bôi nhọ tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam.
Minh chứng rõ nét bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc
Tự do ngôn luận, báo chí, Internet là quyền biểu đạt của từng con người trong xã hội, thể hiện trình độ văn minh, trình độ dân chủ của xã hội. Ngày nay, quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận được mở rộng toàn diện, gồm: Quyền tự do hoạt động nghề nghiệp của người làm báo; quyền tự do ra báo, thành lập các cơ quan truyền thông đại chúng; quyền tự do tiếp cận thông tin báo chí; quyền tự do truyền phát thông tin, biểu đạt quan điểm, quyền được bảo vệ, đối xử công bằng trên các phương tiện truyền thông đại chúng, môi trường mạng Internet.
Sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã trở thành một điểm sáng tăng trưởng kinh tế, xã hội với nhiều thành tựu. Khát vọng vì một Việt Nam thịnh vượng, ý chí tự lực, tự cường luôn là sức mạnh nội sinh thúc đẩy đất nước đi lên trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đặc biệt, Đảng, Nhà nước ta luôn có đường lối, chủ trương đúng đắn nhằm bảo đảm quyền con người nói chung, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do Internet của mỗi người dân.
Hiện nay, cả nước có 6 cơ quan truyền thông chủ lực đa phương tiện, 127 cơ quan báo, 671 cơ quan tạp chí (trong đó có 319 tạp chí khoa học, 72 tạp chí văn học nghệ thuật), 72 cơ quan đài phát thanh, truyền hình. Nhân sự hoạt động trong lĩnh vực báo chí có khoảng 41.000 người; trong đó, khối phát thanh, truyền hình xấp xỉ 16.500 người. Tổng số người được cấp thẻ nhà báo kỳ hạn 2021 – 2025 tính đến tháng 12/2023 là 20.508 trường hợp. Cùng với các cơ quan báo chí trong nước, nhiều hãng truyền thông, thông tấn quốc tế đã có mặt, hoạt động tại Việt Nam.
Theo thống kê của Wearesocial, năm 2023, Việt Nam có 77,93 triệu người dùng Internet, tương đương 79,1% dân số. Với kết quả ấn tượng này, Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng Internet cao thứ 12 trên toàn thế giới, đứng thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á. Người dùng Việt Nam dành trung bình tới gần 7 giờ mỗi ngày để tham gia các hoạt động liên quan tới Internet. Tỷ lệ người sử dụng Internet hằng ngày lên tới 94%.
Không dừng lại đó, ngày 15/10/2024, tại Hà Nội, Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội (Viettel) tuyên bố chính thức khai trương mạng 5G cùng với hơn 6.500 trạm BTS, phủ sóng 100% thủ phủ của 63/63 tỉnh, thành phố, các khu công nghiệp, khu du lịch, cảng biển, sân bay, bệnh viện, đại học. Với việc hoàn thành nghiên cứu, thử nghiệm và đưa vào phủ sóng diện rộng hệ sinh thái sản phẩm 5G cả phần cứng và phần mềm đã đưa Việt Nam lọt vào top 5 quốc gia tự chủ công nghệ 5G.

Học sinh được học tập tin học và các tính năng Internet trong nhà trường.
Theo kết quả khảo sát mới đây của Công ty nghiên cứu thị trường Data Reportal (Singapore), trong số 10 quốc gia có lượng người dùng Facebook, TikTok và YouTube nhiều nhất thế giới thì Việt Nam lần lượt xếp vị trí thứ 6, 7 và 9. Cụ thể, Việt Nam có 66,2 triệu người dùng Facebook, 50,6 triệu người dùng TikTok, 63 triệu người dùng YouTube. Cùng với sự phát triển của đất nước, cơ hội tiếp cận thông tin của đồng bào các dân tộc thiểu số nước ta ngày càng được mở rộng, với tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số sử dụng Internet đạt 61,3%, tăng hơn 9 lần so với năm 2015 – theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019. So sánh tỷ lệ hộ sử dụng Internet theo vùng kinh tế – xã hội cho thấy, tỷ lệ này cao nhất thuộc về vùng Đông Nam Bộ (78,3%) và thấp nhất thuộc về vùng Tây Nguyên (46,1%). Trong số 53 dân tộc thiểu số, dân tộc Hoa có tỷ lệ hộ sử dụng Internet cao nhất (83,7%), tiếp đến là dân tộc Ngái (81,9%) và thấp nhất là dân tộc La Hủ (10,2%). Theo Báo cáo SEA 2023 vừa được Google và Temasek công bố đã nhận định, kinh tế số Việt Nam đang trên đà phát triển và sẽ đạt 45 tỷ USD vào năm 2025.
Ngày 20/3/2024, mạng lưới Giải pháp phát triển bền vững của Liên hợp quốc công bố Báo cáo hạnh phúc thế giới thường niên lần thứ 10, trong đó nêu rõ chỉ số hạnh phúc của Việt Nam tăng 11 bậc, từ vị trí 65 (năm 2023) lên vị trí 54 với tổng điểm trung bình là 6,043. Bảng xếp hạng chỉ số hạnh phúc quốc gia dựa trên kết quả khảo sát tại 143 quốc gia và vùng lãnh thổ. Đó chính là sự thật, là một Việt Nam luôn coi trọng chăm lo hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người, bảo vệ và bảo đảm quyền con người và lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà nước ta ký kết.
Sự tham gia tích cực tại Hội đồng nhân quyền, sự đóng góp thiết thực, có ý nghĩa đối với công việc chung của Việt Nam tại Liên hợp quốc trên tinh thần “tôn trọng lẫn nhau, đối thoại và hợp tác, đảm bảo mọi quyền cho tất cả mọi người” là thực tế khách quan. Đặc biệt, những thành tựu này đã được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, đúng như Surya Deva (Báo cáo viên đặc biệt của Liên hợp quốc về quyền phát triển) đã ghi nhận vai trò của Việt Nam trên cương vị thành viên Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025 và sự tham gia trách nhiệm, tích cực của Việt Nam trong Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát về quyền con người (UPR).
Bằng những hành động cụ thể, không chỉ thể hiện sự cam kết thực hiện của một quốc gia thành viên có trách nhiệm mà còn phản ánh khách quan, minh bạch sự phát triển và nỗ lực không ngừng của Việt Nam trong việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm thực thi quyền con người. Sự thật này bác bỏ những luận điệu bẻ cong sự thật, đánh lừa dư luận, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam là “không tôn trong quyền con người”, là “vi phạm nhân quyền”…
Những con số trên cho thấy, Việt Nam luôn nhất quán chủ trương, chính sách tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tiếp cận thông tin, tự do Internet nói chung và mạng xã hội nói riêng. Điều này đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013, được cụ thể hóa trong nhiều luật, nghị định cùng nhiều văn bản pháp luật khác cũng như Việt Nam đang có những bước đi hoàn thiện về pháp lý, phương tiện và nâng cao nhận thức để bảo vệ quyền con người, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do Internet.
Một lần nữa, Freedom House lại núp bóng “tự do”, “nhân quyền” để đưa ra những đánh giá thiếu khách quan và định kiến, sai sự thật về Việt Nam. Xâu chuỗi lại các hành động, việc làm của tổ chức Freedom House trong những năm qua cho thấy những “bàn tay đen” của các thế lực thù địch, các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài thông qua các tổ chức mang danh dân chủ, nhân quyền để chống phá Việt Nam; không chỉ phản ánh sai lệch, xuyên tạc quyền tự do Internet, bôi nhọ bức tranh nhân quyền mà còn lợi dụng tự do Internet để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.
Liêm Chính – Bình Nguyên
Vấn đề đa chiều

Thứ Bảy, 27 tháng 5, 2023

VÕ HÙNG, KẺ ĂN CHÁO ĐÁ BÁT, XUYÊN TẠC, PHỈ BÁNG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC CỦA DÂN TỘC TA!

 Trong thời gian qua, trên facebook cá nhân của mình, Võ Hùng sinh năm 1966, hiện trú tại 373, Phạm Văn Đồng, thành phố Plei Ku, tỉnh Gia Lai, hiện làm nghề buôn bán sàn gỗ công nghiệp đã liên tục đăng tải những bài viết xuyên tạc lịch sử, phỉ báng cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta, chia sẻ và đăng tải những bài viết có nội dung đi ngược lại với chủ trương, chính sách của Đảng, Pháp luật của nhà nước.




Võ Hùng khi thăm Thành cổ Quảng Trị đã cho rằng “Thành cổ Quảng Trị là nơi lưu giữ lại tội ác của cuộc chiến tranh phi nghĩa” hay khi thăm cầu Hiền Lương, hắn ta cho rằng “Cầu Hiền Lương nơi phân chia hai miền Nam Bắc trong cuộc chiến tranh phi nghĩa, huynh đệ tương tàn …Ngược dòng lịch sử trở về với mùa hè đỏ lửa năm 1972. Nhằm giành ưu thế trên bàn đàm phán, buộc Mỹ phải xuống nước trên bàn đàm phán, đánh sập hy vọng kéo hơi tàn của Mỹ, ngụy trên chiến trường, hàng vạn thanh niên Miền Bắc rời giảng đường, ghế nhà trường để lên đường khi lịch sử đã chọn họ làm điểm tựa, những người lính trẻ bước vào cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc, vì sự nghiệp cao cả là thống nhất non sông.
Cuộc chiến đấu 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị (28-6-1972 - 16-9-1972) là một trong những biểu hiện sinh động nhất cho khát vọng độc lập, tự do, thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại. Hơn 4.000 anh hùng liệt sĩ đã anh dũng chiến đấu và nằm lại nơi Thành cổ, tinh thần kiên cường chiến đấu và niềm tin quyết thắng của những người lính khi tuổi còn đôi mươi đã khẳng định ý chí sắt đá của con người trước bom đạn và điều kiện sống khắc nghiệt nhất của chiến tranh. Sự hy sinh của họ là câu trả lời ngắn gọn, rõ ràng nhất, cảm động nhất, thức tỉnh lương tri nhân loại về khát vọng cháy bỏng “độc lập, tự do, thống nhất” cho cả dân tộc.
Cầu Hiền Lương, là chứng tích lịch sử, một thời là nỗi đau chia cắt của dân tộc Việt Nam. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Pháp đầu hàng vô điều kiện, hiệp định Giơnevơ năm 1954 được ký kết. Thế nhưng Mỹ đã thay Pháp, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, vi phạm trắng trơn Hiệp định Giơnevơ, xâm lược Việt Nam và dựng lên chế độ tay sai, bán nước ngụy Sài Gòn, khiến cho đất nước ta phải hy sinh nhiều của, nhiều người trong 20 năm để chiến đấu và chiến thắng Mỹ, ngụy, thu giang sơn về một mối (Hiệp định Giơnevơ quy định “Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết, và để thực hiện tất cả những điều kiện cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý muốn, cuộc tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7-1956, dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám sát và kiểm soát quốc tế đã nói trong Hiệp định đình chỉ chiến sự. Kể từ ngày 20 tháng 7 năm 1955, những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó.”


Võ Hùng cho đó là “tội ác”, là “chiến tranh phi nghĩa”…một kẻ sinh 1966, nghĩa là chỉ 9 năm sau, đất nước đã thống nhất, giang sơn thu về một mối, lớn lên khi đất nước hết tiếng súng, và được sống tự do như ngày hôm nay. Vậy nhưng hắn ta đã vội quên máu xương của hàng triệu người đã ngã xuống để đất nước có ngày hôm nay, trong đó có bản thân Võ Hùng là người được thừa hưởng thành quả. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là cuộc chiến đấu giữa một bên là giặc Mỹ xâm lược cùng đồng minh và bè lũ tay sai phản nước hại dân ngụy Sài Gòn với một bên là nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam! Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu chỉ là phường bán nước, làm tay sai cho giặc Mỹ để "nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn. Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ". Rõ ràng đây là cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước chứ không hề là cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn vì ngụy Sài Gòn chỉ thực chất là thứ công cụ đi giết thuê cho người Mỹ, giúp người Hoa Kỳ "đổi màu da trên xác chết". Thực chất thì ngụy Sài Gòn không có quyền hành gì cả, mọi việc đều do người Mỹ quyết định mà việc Ngô Đình Diệm bị người Mỹ tiêu diệt là do hắn không nghe lời quan thầy, đó là ví dụ rất điển hình về bè lũ tay sai!
Sống trong một đất nước có đầy đủ quyền tự do, bình đẳng, có môi trường hòa bình, thuận lợi để làm ăn, phát triển kinh tế, thế nhưng cõ vẻ Võ Hùng không muốn, hắn ta liên tục đăng tải, chia sẻ những bài viết sặc mùi phản động, liên hệ với nhiều thành phần bất hảo, chống phá đất nước, trang cá nhân của Võ Hùng thể hiện rất rõ điều này. Người xưa nói: khuyển mã chi tình, nghĩa là, chó ngựa cũng có tình. Xem ra Võ Hùng chẳng thể bằng loại súc sinh khuyển mã, vô ơn, phản quốc. Người được thừa hưởng trái ngọt từ những con người đã "trồng cây xanh độc lập, thống nhất", không thể nào kẻ ăn quả lại quên ơn người trồng để rồi phun ra những luận điệu phản phúc, bất nhân, bất nghĩa và phi nhân tính như vậy; không xứng đáng được làm công dân của một nước tự do, độc lập. Đề nghị cơ quan chức năng tỉnh Gia Lai cần xem xét, xử lý đối với Võ Hùng./.
---------
                                                                                        Lão Chăn Bò