KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, THỜI ĐẠI CỦA CHIẾN THẮNG 30 THÁNG 4

Năm nay, trong những ngày hướng đến kỷ niệm Chiến thắng lịch sử vĩ đại 30/4/1975, nhân dân ta đón mừng sự kiện này với nhiều niềm vui mới. Theo báo cáo của Chính phủ, kinh tế Việt Nam năm 2018 khởi sắc trên cả ba khu vực sản xuất, cung - cầu của nền kinh tế cùng song hành phát triển.

NHẬN DIỆN VÀ NGĂN NGỪA THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG LÒNG YÊU NƯỚC ĐỂ KÍCH ĐỘNG NGƯỜI DÂN XUỐNG ĐƯỜNG BIỂU TÌNH, GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Người yêu nước chân chính là người biết sử dụng pháp luật, đạo đức, truyền thống tốt đẹp để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, đồng thời phải biết tôn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích chính đáng của người khác. Nhận diện được phương thức, thủ đoạn lợi dụng lòng yêu nước để kích động nhân dân làm việc xấu chính là nhằm đưa ra các biện pháp xử lý phù hợp, đồng thời tránh được sự lợi dụng đó để gây ra rối loạn xã hội, phức tạp tình hình.

Thông cáo Báo chí Kỳ họp 32 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương

Từ ngày 03 đến 06/12/2018 tại Hà Nội, Ủy ban kiểm tra Trung ương đã họp kỳ 32. Đồng chí Trần Cẩm Tú, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Trung ương chủ trì kỳ họp.

UBKTTW kết luận vụ AVG: Sai phạm của ông Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn là rất nghiêm trọng

UBKTTW vừa họp kỳ 26 kết luận vụ AVG có những vi phạm của Ban cán sự đảng Bộ TT-TT, ông Nguyễn Bắc Son, ông Trương Minh Tuấn, ông Phạm Đình Trọng, của Ban Thường vụ Đảng ủy Mobifone và các ông Lê Nam Trà, Cao Duy Hải là rất nghiêm trọng.

Bốn kỳ vọng thay đổi lớn về công tác cán bộ sau 4 ngày Hội nghị T.Ư 7

Sau 4 ngày làm việc, Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đã thảo luận nhiều nội dung quan trọng được dư luận đặc biệt quan tâm, trong đó có công tác cán bộ, bởi đây là vấn đề “nóng” trong tình hình hiện nay.

Thứ Năm, 6 tháng 6, 2024

Tội ác môi trường của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam

Chiến tranh đã đi qua mấy chục năm dài thế nhưng hậu quả của nó để lại vẫn chưa thể nào kể hết được. Không chỉ để lại những căn bệnh quái ác bởi chất độc màu da cam mà chiến tranh còn tàn phá môi trường một cách khủng khiếp. Sự tàn phá do Mỹ tạo ra lớn đến mức một từ tiếng Anh mới đã được hình thành ecocide – hủy diệt sinh thái.

Từ năm 1969- 1971, quân đội Mỹ đã gây ra cho Việt Nam một cuộc chiến tranh hóa học có quy mô lớn nhất lịch sử chiến tranh tranh thế giới. Quân đội Mỹ đã sử dụng chất độc màu da cam để làm rụng lá cây với mục đích vô hiệu hóa sự ngụy trang của ta. Chất dioxin có trong đó có nồng độ rất cao. Có khoảng 80 triệu lít chất diệt cỏ và phát quang đã được rải xuống 24,67% lãnh thổ nước ta.
Thời gian phân hủy của nó lên khoảng 15 đến 20 năm hoặc lâu hơn thế nữa. Số lượng lớn chất độc hóa học với nồng độ cao được rải đi rải lại không những khiến các loài động thực vật chết mà còn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và còn làm đảo lộn hệ sinh thái tự nhiên. Có thể nói cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam là một cuộc chiến tranh hủy diệt môi trường, hệ sinh thái và con người.

Máy bay của Đế quốc Mỹ rải chất độc dioxin trên những cánh rừng  Việt Nam

Diện tích đất bị nhiễm dioxin ở Việt Nam là rất rông, chỉ tính riêng ở khu vực gần sân bay Đà Nẵng đã lên tới 73000 m3 đất và trầm tích bị nhiễm chất độc dioxin. Theo ước tính thì có khoảng 366 kg chất dioxin được phun vào miền Nam nước ta mà chủ yếu là vùng nông thôn.
Hiện nay, dấu viết của chất độc quái ác này vẫn còn được tìm thấy trong đất của các vùng bị ô nhiễm nặng. Dioxin đã tác động nặng nề đến môi trường và dân cư nơi nó đặt chân đến. Có thể thấy sự phá hủy cảnh quan thiên nhiên trong chiến tranh là không thể tránh khỏi và cũng không có gì là mới mẻ tuy nhiên sự phá hủy tự nhiên trong chiến tranh Việt Nam là điều chưa từng xảy ra với lịch sử nhân loại.
Quân đội Mỹ đã tàn phá môi trường trên quy mô rộng lớn và kéo dài nhiều năm đã đủ để làm cho hệ sinh thái tự nhiên với diện tích rộng lớn ở nước ta bị phá hủy nặng nề. Có đến 86% lượng chất độc dioxin được rải lên đất rừng, 14% còn lại được rải trên đất nông nghiệp mà chủ yếu là đất trồng lúa.
Hơn hai triệu ha rừng đã bị phá hủy bởi chiến tranh. Theo các chuyên gia về môi trường, chất hóa học có tác động rất đa dạng, hơn 150000 ha rừng ngập mặn bị phá hủy, 130000 ha rừng tràm của vùng sông Mê Công cũng như hàng trăm nghìn ha đất rừng nôi địa cũng bị phá hủy nghiêm trọng.
Những loại chất diệt cỏ được phun rải với nồng độ cao không chỉ phá hủy thành phần dinh dưỡng có trong đất mà còn làm cho đất bị cằn cỗi. Với điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa như nước ta thì khả năng phục hồi của các khu rừng là rất khó.
Có khoảng 10 đến 15 triệu hố bom, nó chiếm 1% diện tích rừng phía Nam Việt Nam gây bất ổn cho mặt đất, làm đất dễ bị xói mòn do mưa. Hậu quả này gây tác hại cho 28 lưu vực sông miền Trung nước ta. Hầu hết các con sông này đều ngắn và có địa hình phức tạp làm ảnh hưởng trực tiếp đến các khu vực hạ lưu. Mấy chục năm sau khi chiến tranh kết thúc, lũ lụt vẫn thường xuyên tàn phá lưu vực sông Hương, Cầu, Ba, Trà Khúc,…, gây ra thiệt hại lớn về người và của. Những hậu quả kinh hoàng đó sẽ kéo dài đến bao giờ? vẫn chưa có một con số cụ thể nào để lý giải cho câu hỏi đó, có lẽ chúng ta chỉ có thể tự hiểu rằng nó vẫn còn đang tiếp tục kéo dài dai dẳng mà chưa rõ hồi kết.
Chiến tranh đã kết thúc nhưng cả nước ta còn có khoảng 66000 km2 vẫn còn tồn đọng vật liệu bom, mìn. Ước tính số bom mìn đã được gỡ mới chỉ trong khoảng 20%. Với tình hình như hiện nay thì phải khoảng 300 năm nữa mới có thể loại bỏ được hết bom mìn chưa nổ. Số bom mìn còn sót lại vẫn sẽ tiếp tục gây tổn hại nặng nề về sinh mạng, sự phát triển kinh tế- xã hội cũng như ảnh hưởng rất lớn đến môi trường tự nhiên.
Chiến tranh đã đi qua mấy chục năm dài thế nhưng hậu quả của nó để lại vẫn chưa thể nào kể hết được. Không chỉ để lại những căn bệnh quái ác bởi chất độc màu da cam mà chiến tranh còn tàn phá môi trường một cách khủng khiếp. Sự tàn phá do Mỹ tạo ra lớn đến mức một từ tiếng Anh mới đã được hình thành ecocide – hủy diệt sinh thái.
Chiến tranh đã ảnh hưởng đến môi trường Việt Nam như thế nào?
Từ năm 1969- 1971, quân đội Mỹ đã gây ra cho Việt Nam một cuộc chiến tranh hóa học có quy mô lớn nhất lịch sử chiến tranh tranh thế giới. Quân đội Mỹ đã sử dụng chất độc màu da cam để làm rụng lá cây với mục đích vô hiệu hóa sự ngụy trang của ta. Chất dioxin có trong đó có nồng độ rất cao. Có khoảng 80 triệu lít chất diệt cỏ và phát quang đã được rải xuống 24,67% lãnh thổ nước ta.
Thời gian phân hủy của nó lên khoảng 15 đến 20 năm hoặc lâu hơn thế nữa. Số lượng lớn chất độc hóa học với nồng độ cao được rải đi rải lại không những khiến các loài động thực vật chết mà còn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và còn làm đảo lộn hệ sinh thái tự nhiên. Có thể nói cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam là một cuộc chiến tranh hủy diệt môi trường, hệ sinh thái và con người.
Diện tích đất bị nhiễm dioxin ở Việt Nam là rất rông, chỉ tính riêng ở khu vực gần sân bay Đà Nẵng đã lên tới 73000 m3 đất và trầm tích bị nhiễm chất độc dioxin. Theo ước tính thì có khoảng 366 kg chất dioxin được phun vào miền Nam nước ta mà chủ yếu là vùng nông thôn.
Hiện nay, dấu viết của chất độc quái ác này vẫn còn được tìm thấy trong đất của các vùng bị ô nhiễm nặng. Dioxin đã tác động nặng nề đến môi trường và dân cư nơi nó đặt chân đến. Có thể thấy sự phá hủy cảnh quan thiên nhiên trong chiến tranh là không thể tránh khỏi và cũng không có gì là mới mẻ tuy nhiên sự phá hủy tự nhiên trong chiến tranh Việt Nam là điều chưa từng xảy ra với lịch sử nhân loại.
Quân đội Mỹ đã tàn phá môi trường trên quy mô rộng lớn và kéo dài nhiều năm đã đủ để làm cho hệ sinh thái tự nhiên với diện tích rộng lớn ở nước ta bị phá hủy nặng nề. Có đến 86% lượng chất độc dioxin được rải lên đất rừng, 14% còn lại được rải trên đất nông nghiệp mà chủ yếu là đất trồng lúa.
Hơn hai triệu ha rừng đã bị phá hủy bởi chiến tranh. Theo các chuyên gia về môi trường, chất hóa học có tác động rất đa dạng, hơn 150000 ha rừng ngập mặn bị phá hủy, 130000 ha rừng tràm của vùng sông Mê Công cũng như hàng trăm nghìn ha đất rừng nôi địa cũng bị phá hủy nghiêm trọng.
Những loại chất diệt cỏ được phun rải với nồng độ cao không chỉ phá hủy thành phần dinh dưỡng có trong đất mà còn làm cho đất bị cằn cỗi. Với điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa như nước ta thì khả năng phục hồi của các khu rừng là rất khó.
Có khoảng 10 đến 15 triệu hố bom, nó chiếm 1% diện tích rừng phía Nam Việt Nam gây bất ổn cho mặt đất, làm đất dễ bị xói mòn do mưa. Hậu quả này gây tác hại cho 28 lưu vực sông miền Trung nước ta. Hầu hết các con sông này đều ngắn và có địa hình phức tạp làm ảnh hưởng trực tiếp đến các khu vực hạ lưu. Mấy chục năm sau khi chiến tranh kết thúc, lũ lụt vẫn thường xuyên tàn phá lưu vực sông Hương, Cầu, Ba, Trà Khúc,…, gây ra thiệt hại lớn về người và của. Những hậu quả kinh hoàng đó sẽ kéo dài đến bao giờ? vẫn chưa có một con số cụ thể nào để lý giải cho câu hỏi đó, có lẽ chúng ta chỉ có thể tự hiểu rằng nó vẫn còn đang tiếp tục kéo dài dai dẳng mà chưa rõ hồi kết.
Chiến tranh đã kết thúc nhưng cả nước ta còn có khoảng 66000 km2 vẫn còn tồn đọng vật liệu bom, mìn. Ước tính số bom mìn đã được gỡ mới chỉ trong khoảng 20%. Với tình hình như hiện nay thì phải khoảng 300 năm nữa mới có thể loại bỏ được hết bom mìn chưa nổ. Số bom mìn còn sót lại vẫn sẽ tiếp tục gây tổn hại nặng nề về sinh mạng, sự phát triển kinh tế- xã hội cũng như ảnh hưởng rất lớn đến môi trường tự nhiên.
Vấn đề đa chiều

Thứ Tư, 5 tháng 6, 2024

Liên Xô tan rã và luận điệu do Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử” - Bài 1: "Mặt trời chói lọi" và quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của Đảng Cộng sản Liên Xô

Trong những năm “cải tổ” ở Liên Xô (1985-1991) lan truyền luận điệu Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử”, do đó cần xóa bỏ Đảng Cộng sản Liên Xô và chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) để “sửa chữa sai lầm lịch sử” đó!?

Luận điệu này là một trong những biểu hiện tập trung của quá trình “tự diễn biến”, "tự chuyển hóa" dẫn tới tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô và nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới. Tuy nhiên, thực tế lịch sử chứng minh Liên Xô tan rã không phải do Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử”.
Nhân kỷ niệm 107 năm Ngày Cách mạng Tháng Mười Nga (7-11-1917 / 7-11-2024), chúng ta cùng nhìn lại vai trò, ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng vĩ đại và nguyên nhân nội tại, có ý nghĩa quyết định dẫn tới sự tan rã Liên Xô, những bài học vẫn nguyên tính thời sự đối với sự nghiệp cách mạng của Việt Nam hiện nay.
Hơn 30 năm kể từ khi Liên Xô - cường quốc XHCN đầu tiên trên thế giới sụp đổ, đã có hàng nghìn công trình nghiên cứu, chuyên khảo, hồi ký, chuyên luận và điều tra đi tìm lời giải về thảm họa địa-chính trị lớn nhất trong thế kỷ 20 này. Tựu trung trong nhiều nghiên cứu chỉ ra, một trong những nguyên nhân có ý nghĩa quyết định dẫn tới thảm họa này là quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng Cộng sản Liên Xô.
Cuộc cách mạng mở đầu một thời đại mới
Nói về ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”.
Không thể phủ nhận sự thật lịch sử là nhà nước Xô viết ra đời từ cuộc Cách mạng Tháng Mười đã đạt được những thành tựu kỳ vĩ trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô. Sinh thời, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng khẳng định: “Đảng Cộng sản Liên Xô có lịch sử vô cùng oanh liệt và vẻ vang.
Được V.I.Lênin sáng lập và rèn luyện, Đảng đã từng là một trong những đảng mác-xít, lê-nin-nít hùng mạnh nhất và kiên cường nhất. Đảng đã từng lãnh đạo nhân dân làm nên Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, đánh thắng chủ nghĩa phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai, xây dựng những cơ sở vật chất - kỹ thuật quan trọng của CNXH, mở ra một giai đoạn phát triển mới trong lịch sử nhân loại. Đó thật sự là những công việc kinh thiên động địa, những sự tích thần kỳ, được cả loài người tiến bộ cảm phục và kính trọng”. 
Cách mạng Tháng Mười như một cơn địa chấn của thế kỷ 20, không chỉ mở ra một kỷ nguyên mới đối với nước Nga mà còn cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng của giai cấp công nhân các nước, chỉ ra cho họ con đường đi tới thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống lại chế độ cũ, xây dựng chế độ mới tốt đẹp hơn. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười và tiếp đó là thắng lợi của nhân dân Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ hai, CNXH từ một nước đã phát triển thành một hệ thống XHCN thế giới đầy sức sống và hùng mạnh, có vai trò to lớn và từng có tính chất quyết định đến vận mệnh, sự phát triển của thế giới.
Hệ thống XHCN, đứng đầu là Liên Xô đã có những giai đoạn phát triển rực rỡ, đã đoàn kết các dân tộc, mọi tầng lớp nhân dân chung tay xây dựng một xã hội tốt đẹp, bình đẳng, công bằng, mang lại hạnh phúc cho đông đảo nhân dân lao động. Nhờ ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười và sự giúp đỡ, tác động của hệ thống XHCN thế giới, từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến những năm 70 của thế kỷ 20, hàng loạt dân tộc thuộc địa và lệ thuộc đã đứng lên giải phóng khỏi sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân.
Cho nên có thể nói, Cách mạng Tháng Mười Nga mang tầm ảnh hưởng quốc tế to lớn, tính thời đại sâu sắc, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử phát triển của xã hội loài người.
"Cải tổ 1.0, 2.0" và hành trình dẫn đến tan rã Liên Xô
Liên Xô sụp đổ là thảm họa địa-chính trị lớn nhất trong thế kỷ 20. Nhiều kẻ cơ hội, phản động được thể xuyên tạc những giá trị lịch sử của nhà nước xã hội đầu tiên trên thế giới được mở đầu bằng cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Từ việc coi Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử”, họ phủ nhận những giá trị nhân văn, tốt đẹp của CNXH, đánh đồng sự sụp đổ của mô hình CNXH hiện thực ở Liên Xô, Đông Âu với sự thất bại của Chủ nghĩa Mác-Lênin và rêu rao cuộc cách mạng đó là “đẻ non”, “đã chết” và CNXH đã đến “hồi kết thúc”... Tuy nhiên, từ thực tiễn, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để bác bỏ những luận điệu trên. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu là sụp đổ của mô hình cụ thể chứ không phải sụp đổ hay cáo chung của Chủ nghĩa Mác-Lênin, của CNXH như các thế lực thù địch, phản động thường rêu rao, xuyên tạc. Ở khía cạnh cụ thể trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin luận giải một số nguyên nhân nội tại của quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có ý nghĩa quyết định đẩy Đảng Cộng sản Liên Xô tới chỗ tan rã và cường quốc XHCN sụp đổ.
Sai lầm về đường lối chính trị
Ngay sau Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lênin từng cảnh báo: “Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền khó hơn”. Vì thế, V.I.Lênin luôn yêu cầu phải kiên quyết và kịp thời đấu tranh ngăn chặn mọi biểu hiện suy thoái về chính trị trong Đảng. Trong những năm dưới sự lãnh đạo của V.I.Lênin và J.Stalin, Đảng Cộng sản Liên Xô đã tiến hành hiệu quả cuộc đấu tranh này. Tuy nhiên, sau khi J.Stalin qua đời (1953), quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về đường lối chính trị trong Đảng Cộng sản Liên Xô bắt đầu bộc lộ biểu hiện rất nguy hiểm.
Trong bản báo cáo mật bên lề Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô khóa XX (1956) đã có chủ trương “xét lại” Chủ nghĩa Mác-Lênin, phủ nhận những thành tựu vĩ đại của Liên Xô trong những năm sau Cách mạng Tháng Mười và trong cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại (1941-1945). Nếu không được các đảng viên trung kiên trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngăn chặn, chủ trương này có thể đưa Liên Xô tới chỗ tan rã. Chính vì thế, giới nghiên cứu lịch sử ở Nga cho rằng chủ trương “xét lại” Chủ nghĩa Mác-Lênin là “cải tổ 1.0”, tuy chưa dẫn tới tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô nhưng đã để lại “di chứng” nặng nề và đã phát tác trong giai đoạn “cải tổ 2.0” thập niên 1980 được khởi xướng bởi M.Gorbachyov trên cương vị Tổng Bí thư và A.Yakovlev trên cương vị Trưởng ban Tuyên truyền của Đảng Cộng sản Liên Xô. Về sau, chính M.Gorbachyov và A.Yakovlev công khai thừa nhận mục tiêu hướng tới của “cải tổ” là xóa bỏ Đảng Cộng sản và chế độ XHCN ở Liên Xô.
Sai lầm trong công tác cán bộ của Đảng
Đường lối cán bộ của Đảng Cộng sản Liên Xô do V.I.Lênin đề xướng dựa trên các nguyên tắc kết hợp việc tuyển chọn cán bộ có đức, có tài với công tác kiểm tra quá trình thực hiện công tác của cán bộ. V.I.Lênin chủ trương “tin tưởng là tốt, nhưng kiểm tra vẫn tốt hơn”. Kiểm tra nhằm kịp thời cảnh báo và ngăn chặn quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Các thế hệ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô sau này đã không tuân theo di huấn của Lênin, vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc trong công tác cán bộ của Đảng. Một là, nặng về hình thức trong đào tạo cán bộ theo kiểu “thầy đọc, trò chép và học thuộc lòng”. Vì thế, kiến thức lý luận về Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ nằm trên sách vở mà không được vận dụng vào thực tiễn. Nhiều cán bộ tuy được cấp bằng hoặc chứng chỉ nhưng năng lực lãnh đạo kém, không có khả năng dự phòng và bảo vệ, thậm chí vô cảm trước quá trình diệt vong của Đảng. Hai là, khi tuyển chọn và bổ nhiệm cán bộ thường xuất phát từ tình cảm cá nhân, yêu-ghét chủ quan, cố ý nâng đỡ những kẻ thân tín, bè phái. Ba là, công tác đánh giá cán bộ trở thành công cụ để thực hiện ý đồ của cá nhân người lãnh đạo chứ không nhằm mục đích chọn cán bộ tốt.
Các thành viên Đảng Cộng sản Nga tại lễ kỷ niệm 100 năm Cách mạng Tháng 10 Nga ở thủ đô Moskva. Ảnh: TTXVN


Vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng
V.I.Lênin là người đề ra nguyên tắc tập trung dân chủ để xây dựng chính đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Theo nguyên tắc này, thiểu số phục tùng đa số, bộ phận phục tùng tập thể và các cơ quan lãnh đạo cấp dưới phục tùng cơ quan lãnh đạo cấp trên. V.I.Lênin cho rằng, nếu không có tập trung, Đảng sẽ trở thành một “câu lạc bộ” lộn xộn, còn nếu xa rời dân chủ, Đảng sẽ trở thành một tổ chức quan liêu, độc đoán, chuyên quyền. V.I.Lênin đã nhiều lần cảnh báo sự vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ là hiểm họa đe dọa sự sống còn của Đảng và chế độ XHCN.
Các thế hệ lãnh đạo sau này, nhất là M.Gorbachyov đã xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ, lạm dụng quyền lực để loại bỏ những cán bộ trung thành và kiên định với lý tưởng XHCN, bổ nhiệm những kẻ ủng hộ chủ trương “cải tổ” sai lầm của ông. Về sau, chính A.Yakovlev thừa nhận, M.Gorbachyov sử dụng “cơ chế toàn trị” để phá hoại Đảng Cộng sản Liên Xô.
Sự thoái hóa, biến chất về đạo đức, lối sống
Sự thoái hóa, biến chất về đạo đức, lối sống trong Đảng Cộng sản Liên Xô trở nên đặc biệt nghiêm trọng trong thời kỳ L.Brezhnev và M.Gorbachyov cầm quyền với những biểu hiện rất đa dạng như tham quyền cố vị; bệnh thành tích, thích được khen thưởng và hưởng lạc; giả dối; tham ô... Biểu hiện điển hình nhất về bệnh thành tích là L.Brezhnev. Tính tổng cộng, L.Brezhnev đã nhận 114 huân chương, trong đó có 8 Huân chương Lênin; 2 Huân chương Sao Đỏ, Huân chương Chiến thắng; 2 Huân chương Cách mạng Tháng Mười... Do không đáp ứng các tiêu chuẩn được nhận, những huân chương dành cho L.Brezhnev đã gây phản ứng rất tiêu cực trong xã hội, làm mất uy tín không chỉ trong mà cả ngoài Đảng.
Trong Đảng hình thành tầng lớp đặc quyền, đặc lợi. Ở Liên Xô thời đó tồn tại hệ thống cửa hàng đặc biệt dành cho cá nhân và gia đình các thành viên của Ban Chấp hành Trung ương Đảng-nơi họ có thể mua bất cứ thứ hàng hóa xa xỉ nào được nhập khẩu từ phương Tây. Vì thế, nhân dân coi lãnh đạo cấp cao trong Đảng như là một “giai cấp mới” trong xã hội Xô viết, tạo hố ngăn cách ngày càng lớn giữa Đảng và nhân dân. Sự tha hóa, biến chất trong Đảng lên tới đỉnh điểm trong giai đoạn “cải tổ”, trong đó lợi dụng những khe hở của pháp luật trong quá trình tư nhân hóa, các tầng lớp đặc quyền, đặc lợi trong bộ máy lãnh đạo Đảng và quản lý nhà nước mặc sức tham nhũng, vơ vét của công, dẫn tới bước ngoặt căn bản là thúc đẩy quá trình tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô và nhà nước Xô viết.
(còn nữa)
Đại tá LÊ THẾ MẪU, nguyên Trưởng phòng Thông tin Khoa học Quân sự, Viện Chiến lược Quốc phòng

Thứ Ba, 4 tháng 6, 2024

Ngày về của Nay Tri

Tin theo lời dụ dỗ của các đối tượng lưu vong, Nay Tri (SN 1978, trú buôn Ia Rnho, xã Đất Bằng, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai) vượt biên sang Thái Lan và đã trải qua những ngày tháng sống chui sống lủi, sai lầm nhất trong cuộc đời.

Lạc lõng trên đất người
Đón chúng tôi trong nhà mình, anh Nay Tri không giấu được sự mừng vui, hạnh phúc khi lại được trở về sống trong tình yêu thương, bao bọc của buôn làng và chính quyền địa phương. Cuối năm 2023, anh liên lạc, trao đổi qua mạng xã hội với Siu Thoan, Ksor Non, Nay Phoan (đối tượng đang sống lưu vong ở nước ngoài). Các đối tượng này dụ dỗ, lôi kéo Nay Tri vượt biên trái phép sang Thái Lan để làm việc ổn định với mức lương 1 triệu đồng/ngày và nhiều ưu đãi khác.
Gia đình khó khăn, hiểu biết lại hạn chế nên anh đã tin theo. Gom góp hết tiền trong nhà không đủ, anh phải mượn thêm của người quen hơn 40 triệu đồng (tổng cộng khoảng 60 triệu đồng) để làm lộ phí sang Thái Lan.
Ngày 4/1/2024, anh Nay Tri liên lạc và được các đối tượng hướng dẫn đi từ Gia Lai vào Đồng Nai rồi lên Tây Ninh. Tại cửa khẩu Mộc Bài, Nay Tri được một đối tượng người Việt Nam đón. Ksor Non liên lạc và yêu cầu anh phải đưa toàn bộ số tiền mang theo cho đối tượng dẫn đường để đổi sang tiền Thái Lan, sau khi sang được Thái Lan sẽ được trả lại toàn bộ số tiền này, không lấy tiền công dẫn đường.
Tuy nhiên, sau khi sang được đất Thái Lan, kẻ dẫn đường chỉ đưa lại cho anh số tiền nhỏ, tương đương khoảng 6 triệu đồng. Đất khách quê người, anh không thể đòi lại tiền, cũng không dám phản kháng nên phải theo sự sắp đặt của các đối tượng.
Ở Thái, anh thuê trọ ở chung với một người khác trong căn phòng rộng vài mét vuông, giá thuê 1,2 triệu đồng/tháng. Công việc chủ yếu là phụ hồ, dọn vườn thuê nhưng chỉ được trả mức lương 200 Bạt Thái Lan/ngày (khoảng 150 nghìn đồng), trong khi chi phí sinh hoạt rất đắt đỏ.
Không có giấy tờ hợp pháp, anh liên tục phải trốn tránh sự kiểm tra của cảnh sát Thái Lan. Các chủ thuê lo sợ bị phạt nên không thuê mướn nữa. Những kẻ từng hứa hẹn cũng bặt tăm. Bị đau nhưng không còn tiền, không dám đi khám bệnh, sốt nằm ở nhà 2 ngày mà không có gạo ăn, may mà hàng xóm thấy thương nên cho ít gạo về nấu cháo, ăn qua cơn sốt.
Lúc cùng quẫn nhất, Ksor Non lại tìm đến và xúi giục, anh chỉ cần lên mạng xã hội nói xấu Đảng và Nhà nước thì sẽ được cấp tiền, được cho gạo ăn. Tuy nhiên, lương tâm tỉnh táo, anh không nghe theo. Không đạt được ý đồ, các đối tượng quay ra cô lập, trù dập anh trên xứ người.
“Nhà nước có làm gì đâu mà kêu mình nói xấu. Trốn đi Thái Lan là sai lầm lớn nhất trong cuộc đời tôi”, anh Nay Tri bộc bạch.

Ngày về của Nay Tri

Vòng tay yêu thương
Hiểu được hoàn cảnh, tâm tư nguyện vọng của anh Nay Tri, Công an huyện Krông Pa đã lên phương án giúp đỡ. Thông qua gia đình, cơ quan Công an đã chủ động liên lạc, hướng dẫn Nay Tri cách thức để trở về Việt Nam. Theo sự hướng dẫn, hỗ trợ này, đến ngày 27/7, Nay Tri đã trở về địa phương an toàn.
“Về đến cửa khẩu, tôi được cán bộ cho 1 triệu đồng để có tiền đi xe, chi phí trở về nhà. Trước khi về, tôi có động viên những người ở cùng hãy quay về nhưng họ không nghe, họ vẫn còn mê muội với những lời lừa phỉnh của Ksor Non”, anh Nay Tri chia sẻ.
Công an huyện Krông Pa và chính quyền xã Đất Bằng đã động viên, tháo gỡ giúp Nay Tri sớm hòa nhập, nhanh chóng ổn định cuộc sống. Chính quyền xã Đất Bằng đã hỗ trợ cho gia đình Nay Tri 50kg gạo. Ông Rô Krik - Chủ tịch UBND xã Đất Bằng cho biết: Gia đình Nay Tri có 5 con, đứa lớn nhất 20 tuổi, nhỏ nhất 5 tuổi thuộc diện hộ cận nghèo. Kinh tế gia đình chủ yếu phụ thuộc vào 8 sào đất trồng mì và nuôi 2 con bò.
Địa phương cũng đã hỗ trợ cho gia đình anh Nay Tri 3 con bò giống trị giá 37 triệu đồng, lắp nước máy sinh hoạt và trang bị Wifi miễn phí cho gia đình. Đây là chính sách hỗ trợ thực hiện dự án 3, thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Trung úy Cù Trung Hùng - Cán bộ Đội An ninh, Công an huyện Krông Pa cho hay: giờ thì anh Nay Tri chỉ an tâm lao động sản xuất để thoát nghèo, đóng góp tích cực vào các nhiệm vụ chung của địa phương.
Trung tá Mai Văn Năng - Phó Trưởng Công an huyện Krông Pa thông tin: “Những năm qua, bọn phản động lưu vong liên tục thông qua mạng xã hội tung tin, tác động vào một bộ phận quần chúng còn khó khăn về kinh tế, trình độ dân trí thấp, nhất là số thanh niên người dân tộc để dụ dỗ, chỉ dẫn xuất cảnh trái phép sang Thái Lan, Campuchia nhằm gây rối loạn tình hình trong nước.
Sau đó, các đối tượng xúi giục, bắt buộc họ tham gia các tổ chức phản động, xuyên tạc, bôi nhọ, vu khống tình hình trong nước, ở địa phương họ sinh sống hoặc bị ép buộc vào các nhóm lừa đảo công nghệ cao. Những hành vi này cần phải bị lên án, bị xử lý nghiêm khắc; cộng đồng nhân dân tiến bộ cả trong và ngoài nước cần cảnh giác và đấu tranh bài trừ”.

Chí Hào (GLO)