Thứ Năm, 4 tháng 1, 2018

TÔN GIÁO VÀ ĐẠO ĐỨC

Tôn giáo là nền tảng của đạo đức?

TÔN GIÁO VÀ ĐẠO ĐỨC

             Nhiều người cho rằng “tôn giáo là nền tảng của đạo đức”.
Mặc dù một số những người này không có ý gì khác hơn là chỉ hãnh diện về tôn giáo của họ, họ không nhận thức được rằng ý tưởng trên còn hàm ý là “phải cần có tôn giáo mới có thể có đạo đức”. Và từ đó họ cũng vô tình quảng bá cái quan điểm rằng “không có tôn giáo là không có đạo đức”.
Đây là một quan điểm rất nguy hiểm.
Nó tạo ra một lằn ranh chia rẽ nhóm người “có tôn giáo” và nhóm người “không tôn giáo”. Nó đồng thời quảng bá cái ý niệm “có tôn giáo = có đạo đức” và “vô tôn giáo = vô đạo đức”.
Quan điểm này là một lý do chính tại sao những người vô tôn giáo thường bị kỳ thị ở nhiều lãnh vực trong xã hội. Thí dụ như ở Mỹ (là một quốc gia có phần lớn dân chúng theo Thiên Chúa Giáo), một người không “có đạo” sẽ không bao giờ có hy vọng gì ra tranh cử và thắng cử trong các cuộc bầu cử quan trọng.
Có những tín đồ cho rằng hiện tượng Đức Quốc Xã tàn sát người Do Thái trong đệ nhị thế chiến, tội ác của Polpot ở Cambuchia, v.v. là kết quả của sự thiếu đạo đức trong các tổ chức vô thần đó. Thật ra các cuộc thảm sát này không có liên can gì đến việc có hay không có tôn giáo cả. Chúng đã xảy ra trong các thời điểm đó là chỉ vì chủ nghĩa độc tôn, độc quyền, độc tài có cơ hội vượt thoát ra khỏi vòng kiểm soát bình thường hiện diện trong các tập thể con người.
Mặt khác, cuộc tấn công thành phố Newyork ngày 11/9/2001 là kết quả trực tiếp của lý tưởng tôn giáo cực đoan từ một tổ chức cầm quyền Hồi giáo. Các vụ cảm tử quân đánh bom hàng ngày giết hại thường dân tại các nước Trung Đông, vụ nổ súng tàn sát mười mấy người trong trụ sở tuần báo Charlie Hebdo ở Paris và các vụ khủng bố tràn lan ngày nay ở nhiều nước Tây phương bởi tổ chức tự xưng là “Quốc Địa Hồi Giáo” (“Islam State”) là kết quả trực tiếp của hệ thống tẩy não trong các lực lượng quân sự cực đoan dựa vào lý tưởng Hồi giáo. Họ không hề ngần ngại tàn sát những người ngoại đạo vì theo họ thì “ngoại đạo = vô tôn giáo = vô đạo đức = vô giá trị = không đáng sống”.
Ý niệm "tôn giáo của tôi là nền tảng đạo đức" là lý do và nguồn gốc của bao nhiêu cuộc đổ máu lớn nhỏ giữa con người với con người khi nền văn minh sơ khai nhất thành hình cho đến ngay cả ngày hôm nay.
Có vô số cuộc chiến tranh đã và đang xảy ra vì tôn giáo. Chỉ cần nhìn vào lịch sử của hầu như bất cứ quốc gia nào ra cũng có thể thấy điều nầy. Thông thường thì 2 tôn giáo đối nghịch nhau giết hại nhau vì danh nghĩa tôn giáo của mỗi bên. Thí dụ như sự tranh chấp ưu thế giữa Thiên Chúa giáo và Hồi giáo nhiều lần trong gần 2000 năm qua.
Cũng có nhiều khi chính cùng một tôn giáo cũng phân chia ra thành những tiểu nhóm khác nhau để rồi tàn sát lẫn nhau. Thí dụ như cuộc chiến tranh dài 30 năm từ cuối thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 17 giữa Công giáo và Tin Lành ở Âu Châu. Mối hiềm khích giữa 2 nhóm môn đồ của Thiên Chúa này vẫn còn kéo dài đến ngày hôm nay. Gần đây, giữa 1969 và 2001, sự bất hòa cũng giữa Công giáo và Tin Lành ở Ái Nhĩ Lan dẫn đến cuộc nội chiến với hàng ngàn người thiệt mạng.
Ngay bây giờ, nếu ai google “Catholic vs Protestant” (“Công giáo vs Tin Lành”) thì vẫn sẽ thấy hiện đang có hàng ngàn trang mạng, diễn đàn mà tín đồ của 2 phe vẫn ngày ngày liên tục mạt sát lẫn nhau về niềm tin của phe bên kia.
Một thí dụ khác về chiến tranh giữa các tín đồ cùng tôn giáo hiện nay là mối bất hòa dai dẳng hàng thế kỷ ở Iraq giữa 2 nhóm Hồi giáo khác nhau Sunni và Shia giết hại lẫn nhau hàng ngày cùng dưới danh nghĩa của Thượng đế Allah của họ.
Nhiều chiến tranh giữa 2 tập thể, 2 quốc gia xuất phát từ sự tranh chấp tài sản, quyền lực hay lãnh thổ. Tuy nhiên tôn giáo cũng thường được sử dụng để tạo dựng danh nghĩa và khuyến dụ sự hỗ trợ của đại chúng. Khi một người nghĩ rằng Thượng Đế đứng cùng phía với họ thì họ sẵn sàng thí bỏ sinh mạng của mình đổi lấy một tấm vé vào cổng thiên đường. Khi một người nghĩ rằng mình đứng cùng phía với Thượng Đế thì họ sẵn sàng sát hại “kẻ thù” đồng loại của mình mà không mang mặc cảm tội lỗi.
Steven Weinberg, một vật lý gia Hoa Kỳ có lần tuyên bố trên tờ New York Times rằng “Dù có hay không có tôn giáo thì trên đời lúc nào cũng có người tốt làm những điều tốt và kẻ ác độc làm những điều ác độc. Tuy vậy, muốn có người tốt làm điều ác độc thì phải cần đến tôn giáo”.
Richard Dawkins cho rằng tôn giáo chỉ cung cấp những cái cớ để biện hộ cho nhiều hành động và sự việc vô đạo đức. Ông cũng cho rằng tôn giáo chỉ là một sản phẩm phụ trong quá trình nhận thức của nhân loại và không liên quan gì đến nền tảng đạo đức của con người. Lấy Thiên Chúa Giáo làm thí dụ, có vô số người vô thần cũng là người “tốt” (theo định nghĩa của Thiên Chúa giáo) mà không cần biết đến hay nhìn nhận sự hiện hữu của Chúa Trời. Đồng thời cũng có vô số tín đồ Thiên Chúa giáo rõ ràng không phải là người “tốt” (cũng theo định nghĩa của chính tôn giáo họ).
Triết gia Dan Dennett (Tufts University – Boston) cho biết rằng tỉ lệ giữa số người có tín ngưỡng và người không có tín ngưỡng của dân số trong tù ở Mỹ cũng rất tương tự như tỉ lệ này của dân số bên ngoài. Ông cũng cho biết rằng tỉ lệ ly dị trong tín đồ Thiên Chúa Giáo ở Mỹ có phần cao hơn tỉ lệ ly dị của những người không theo nền tín ngưỡng nào cả.

Đạo đức hiện hữu không cần tôn giáo

Trong vũ trụ có sẵn những giá trị “chân thiện mỹ” tự nhiên mà con người ai cũng có thể cảm nhận và ngưỡng mộ. Thí dụ như thương yêu đồng loại, bảo vệ gia đình, mến kính cha mẹ, chăm sóc con cái v.v. Con người có thể truyền dạy và thực hành các giá trị chân thiện mỹ này không cần tôn giáo.
Hầu hết trong giáo điều của mọi tôn giáo đều có bao gồm một số những giá trị chân thiện mỹ này. Những giá trị chân thiện mỹ trong các tôn giáo đều tương tự nhau, mặc dù người ta có thể khoát cho chúng những lớp áo có màu sắc và hình dạng khác nhau.
Gần đây đã có nhiều chương trình khảo cứu về ảnh hưởng của tôn giáo trên cung cách của con người. Người ta muốn thử tìm hiểu xem tôn giáo có những ích lợi gì cho con người và tôn giáo có thật sự làm cho một người trở thành có đạo đức hay không.
Từ những cuộc nghiên cứu này, có nhiều chứng cứ hỗ trợ quan điểm nói rằng tiêu chuẩn đạo đức có thể tự xảy sinh từ tâm thức mỗi người và không cần phải xuất nguồn từ tôn giáo.
Hầu như có thể nói rằng chúng ta sinh ra với những nhận định cơ bản đâu là sai đâu là đúng đã có sẵn trong đầu. Không tôn giáo hay hệ thống tín ngưỡng nào có thể làm thay đổi những giác quan cảm nhận việc sai đúng cơ bản này trong mỗi người cả.
Jesse Bering, khoa trưởng của Khoa Văn Hóa và Nhận Thức ở Queens University, Belfast, Anh Quốc cho rằng ý niệm và cung cách đạo đức có thể khởi phát ngay trong những người không có đạo. Đó là vì tôn giáo và đạo đức đều cùng phát xuất từ một nguồn gốc chung, đó là quá trình tiến hóa của nhân loại. Theo ông, đạo đức không phát xuất từ tôn giáo như nhiều người thường nghĩ, mà cả hai tuy tiến hóa trên 2 con đường riêng biệt nhau nhưng đều cùng phát nguồn từ những động lực chung trong môi trường xã hội.
Theo ông Bering, ngay từ khi bắt đầu có ngôn ngữ và khả năng suy luận, tổ tiên chúng ta đã nhận thấy rằng nếu một cá nhân có khuynh hướng làm nhiều điều tốt hay xấu, thì mọi người xa gần đều biết về danh tiếng, tốt hay xấu, của cá nhân này. Hơn nữa, những cá nhân sống hòa đồng và có ích lợi cho mọi người chung quanh thường được yêu chuộng hơn. Trong những tập thể tiền sử này (cũng như trong xã hội ngày nay), một cá nhân được nhiều người yêu chuộng thường có nhiều lợi điểm trong đời sống hằng ngày. Vì thế dần dần mọi người đều đi đến một nhận xét rằng "làm điều tốt sẽ đem lại điều tốt cho chính mình". Từ nhận xét này, một sự kiện quan trọng xảy ra: con người dần dần nhận biết rằng "lúc nào cũng có người quan sát và phán xét xem việc mình làm có tốt hay không". Từ những áp lực xã hội này, tiêu chuẩn đạo đức thành hình.
Nói cách khác, đạo đức thành hình vì mọi người từ thời cổ đại dần dần có một khái niệm chung về những điều gì là xấu, những điều gì là tốt. Việc có đạo đức là một điều có ích lợi, và được khuyến khích, vì người có đạo đức thường đem lại và nhận được nhiều điều tốt từ những người chung quanh.
Tôn giáo thành hình là vì cái quan niệm "có ai đó ngó chừng từng hành động của mỗi người" được dần dần biến cải thành ý niệm "có một ai đó siêu hình ngó chừng từng hành động của mỗi người".
Đây là do cái khuynh hướng của con người hay nâng nhấc những gì mình ngưỡng mộ lên cao hơn mức độ thật sự của nó. Từ cái cảm giác lúc nào cũng bị/được quan sát và phán xét bởi đồng loại, từ sự nhận định rằng sự phán xét này rất quan trọng trong đời sống của họ, từ khuynh hướng trong tâm thức muốn giải thích lý do và ý nghĩa cho mọi sự việc bất kể có hoàn toàn chính xác hay không, con người đã từ từ bao bọc cái áp lực xã hội này với những khía cạnh “siêu hình” do chính họ tạo dựng lên.

Đạo đức của tôn giáo là đạo đức hoàn hảo?

Nếu:
- Con chó dữ = người có khuynh hướng làm ác
- Sợi dây xích = tôn giáo (với những hứa hẹn và đe dọa ngăn cản không cho con người làm ác).
Một trong những quan điểm đạo đức thường được dùng bởi nhiều người khi nói về tôn giáo là "dùng sợi dây xích để cột con chó dữ lại cho đến khi nào nó được huấn luyện thuần thục rồi sẽ thả ra".
Tuy nhiên, chúng ta cần phải thấy rằng sợi dây xích không có khả năng để huấn luyện con chó dữ trở thành thuần thục. Sợi dây xích chỉ có khả năng cột giữ con chó lại một chỗ mà thôi. Tôn giáo cũng vậy, những lời hứa hẹn và đe dọa của tôn giáo chỉ có thể ngăn cản một phần nào không cho người ta làm điều ác mà thôi.
Tôn giáo do đó không phải là một phương cách hữu hiệu để biến cải những người có khuynh hướng hay bản tính làm ác. Ai cũng thấy trên đời xưa nay có vô số thí dụ về các tín đồ sùng đạo triệt để nhất, các bậc tu hành cấp bật cao cả nhất vẫn phạm đủ loại tội ác kinh khiếp nhất. Những thí dụ này có thể thấy trong bất cứ tôn giáo nào.
Đồng thời có vô số những con chó bản tính hiền thục cũng bị cột cổ bằng những sợi dây xích như vậy. Những con chó này dù có bị xích hay không thì chúng cũng không có khuynh hướng cắn người. Tương tự, có vô số người bản chất hiền hòa sinh ra đã bị cha mẹ tròng vào cổ một tôn giáo. Đối với những người này thì dù có hay không có những lời hứa hẹn hay đe dọa trong tôn giáo, bản chất hướng thiện của họ cũng vẫn không cho phép họ làm hại người khác.
Phương thuốc dùng sợi dây xích để cột giữ con chó có vài phản ứng phụ nghiêm trọng sau đây.
Thứ nhất, với sợi dây xích cột chặt vào cổ, con chó có thể bị người chủ điều khiển, áp chế, sử dụng cách nào cũng được. Họ có thể cột nó ở chỗ nào họ muốn; họ có thể bắt nó làm trò tiêu khiển hay giữ nhà cho họ; họ có thể thâu ngắn lại hay nới lỏng dây sợi xích ra tùy theo nhu cầu của họ. Nhiều nhà cầm quyền, giáo hội, tu sĩ, tăng lữ xưa nay hiểu biết rất rõ điều này và sử dụng chúng một cách nhuần nhuyễn để vụ lợi.
Thứ hai, con chó dữ bị cột lâu ngày ngược với bản tính tự nhiên của nó sẽ bị đè nén về nhiều mặt tâm sinh lý. Tuy sợi dây xích ngăn cản không cho nó đi đâu xa hay cắn người được nhưng nó vẫn sẽ tìm cách để giải tỏa các đè nén trên bằng cách này hay cách khác. Nó có thể đào phá sân cỏ, cắn gặm những cây cối, vật dụng nằm trong phạm vi nó có thể vói tới.

TÔN GIÁO VÀ ĐẠO ĐỨC

Thứ ba, con chó dữ khi nằm trong phạm vi sợi dây xích của nó có thể có vẻ rất hiền ngoan. Nhiều người lầm lẫn cho rằng cái bề ngoài hiền ngoan này là bản chất thật sự của nó. Khi họ bước đến gần con chó mà không đề phòng, nó sẽ không ngần ngại để cắn họ. Có bao nhiêu người đã than vản các câu tương tự "tôi không ngờ ông ấy tu hành đức độ như vậy mà làm những chuyện ác độc đó hãm hại tôi!"?
Thứ tư, khi đã bị cột cổ bằng sợi dây xích lâu ngày thì con chó nghĩ rằng sợi dây xích là vật sỡ hữu quý báu của nó. Nếu một người lạ vì lý do gì đó đụng chạm vào sợi dây xích này thì con chó sẽ lập tức hùng hỗ cắn sủa người ấy. Đó là tại sao nhiều tín đồ hung hăng tấn công những người phê bình, chỉ trích về tôn giáo của họ.

Tôn giáo có trước hay đạo đức có trước?

Đứng trước câu hỏi "Phật có trước hay pháp có trước?" có người cho rằng "pháp có trước", có người cho rằng "Phật có trước".
Lý do là vì hai câu trả lời trên dùng ý nghĩa của chữ "pháp" hai cách khác nhau.
Nếu dùng chữ "pháp" với ý nghĩa "là lẽ thật của vũ trụ muôn đời" thì pháp có trước Phật. Trong trường hợp này thì dù có Phật hay không thì pháp này vẫn hiện hữu.
Nếu dùng chữ "pháp" với ý nghĩa "lời dạy của Phật" (tức là những gì Phật truyền dạy lại cho đệ tử sau khi Phật đã giác ngộ được lẽ thật của vũ muôn đời) thì Phật có trước pháp.
Nếu dùng khái niệm "tập hợp" trong toán học để minh giải thì tập hợp những lời dạy của Phật sẽ nhỏ hơn (hay nhiều lắm là "bằng") tập hợp những lẽ thật của vũ trụ muôn đời.
Vấn đề này có thể sẽ dễ hiểu hơn nếu dùng câu hỏi thí dụ sau đây "Newton có trước hay nguyên lý trọng lực có trước?"
Ai cũng thấy rằng trọng lực, và nguyên lý vận hành của trọng lực, đã có sẵn trong vũ trụ bất kể Newton có sinh ra đời hay không. Tuy nhiên nhờ có Newton mà lý thuyết về các vận hành của trọng lực mới được đề ra và truyền dạy lại cho mọi người. Do đó tùy cách hiểu và cách sử dụng chữ "nguyên lý trọng lực" mà Newton có trước hay nguyên lý trọng lực có trước.
Tương tự về câu hỏi "đạo đức có phải phát nguồn từ tôn giáo hay không?"
Nhiều tín đồ Thiên Chúa Giáo cho rằng nhờ có tôn giáo (của họ) nên mới có cơ sở đạo đức trong xã hội Tây Phương ngày nay.
Những người này không thấy rằng họ đang nhầm lẫn giữa " đạo đức của nhân loại" với "đạo đức của Thiên Chúa Giáo" khi dùng chữ “đạo đức” trong lý luận trên.
“Đạo đức của nhân loại” là những giá trị chân thiện mỹ, những tiêu chuẩn hành sử, những cách đối đãi lẫn nhau đã được con người công nhận, áp dụng và lưu truyền trong xã hội qua một quá trình tiến hóa dài dẳng từ khi con người bắt đầu sống chung với nhau trong thời tiền sử.
Trong khi đó “đạo đức Thiên Chúa Giáo” là những gì được Kinh Thánh cho là lời dạy của Chúa Trời, là hay là tốt. Cái mà tín đồ Thiên Chúa Giáo gọi là “đạo đức” trong lý luận trên thật ra chỉ là “đạo đức của Thiên Chúa Giáo”.
Ba bốn trăm năm trước Công Nguyên, các triết gia Hy Lạp như Socrates, Plato, v.v. đã hệ thống hóa và soạn thảo ra nhiều văn kiện về những giá trị đạo đức của nhân loại. Những văn kiện này trở thành nền tảng đạo đức trong xã hội của nhiều nền văn minh quá khứ và hiện tại.
Kinh Thánh là một tác phẩm được đúc kết, sao chép, góp nhặt từ các truyền thuyết và truyền thống của các tôn giáo cổ Trung Đông. Một điều không ai chối cãi được là Kinh Thánh chỉ mới ra đời khoảng 2000 năm nay, có nghĩa là sau những triết gia như Socrates, Plato, v.v.
Chỉ sự kiện trên thôi cũng đủ cho thấy Kinh Thánh không phải là nguồn gốc của cơ sở đạo đức mà chúng ta sử dụng ngày nay trong xã hội Tây Phương. Kinh Thánh có dạy về một số giá trị đạo đức đã có sẵn trong những giá trị đạo đức của nhân loại. Nếu dùng khái niệm "tập hợp" trong toán học để minh giải thì tập hợp những giá trị đạo đức này của Thiên Chúa Giáo nhỏ hơn (rất nhiều) so với tập hợp những giá trị đạo đức của nhân loại.

Ích lợi của tôn giáo về mặt đạo đức

Một điều không thể tranh cãi được là tôn giáo đóng góp không nhỏ trong việc truyền dạy một số vấn đề về đạo đức.
Người ta khảo cứu và thấy rằng nhiều tín đồ tôn giáo thường có sự hiểu biết khá nhiều về đạo đức và ít khi có khuynh hướng phạm tội ác. Họ cũng thường có một đời sống hạnh phúc, thường quan tâm đến người khác, có từ tâm và đóng góp cho từ thiện. Người ta cũng thấy rằng tôn giáo có thể giúp tín đồ cai thuốc, cai rượu, cai bài bạc và có một đời sống sinh dục điều độ. Một cuộc khảo cứu gần đây cho thấy trong những bệnh nhân AIDS, người có tín ngưỡng thường có liên hệ tình dục với ít người khác hơn khi so sánh với người không có tín ngưỡng.
Tuy vậy, các cuộc khảo cứu này cũng cho thấy rằng tôn giáo không phải là nền tảng duy nhất của đạo đức. Một thí dụ là trong những bệnh nhân AIDS, nhiều người Công giáo xử dụng bao cao su trong việc giao dịch tình dục hơn những người không theo Công Giáo. Điều này đi ngược hẳn lại với việc Giáo Hội Công Giáo nghiêm cấm các tín đồ không được xử dụng bao cao su ngừa thai. Những bệnh nhân AIDS Công Giáo này đã lấy lương tâm và sự phán xét cá nhân của mình khi quyết định dùng bao cao su ngừa thai để ngăn ngừa sự lan truyền chứng bệnh của họ đến người khác.
Do đó, những cuộc khảo cứu trên tuy ủng hộ quan điểm tôn giáo có ảnh hưởng tốt đến hành vi cung cách đạo đức của tín đồ, nó cũng chỉ cho thấy rằng đạo đức không phải chỉ phát xuất từ tôn giáo mà còn từ những nguồn gốc khác, thí dụ như lương tâm và sự phán xét độc lập của cá nhân.
Theo ông Bering, ngày nay bất kể một người có tin ở Thượng Đế hay không, thì trong bộ óc họ cũng đã được “rèn luyện” sẵn để cho họ có một cái cảm giác rằng khi làm điều gì “xấu” thì họ sẽ bị phán xét. Cái quan niệm “đúng” hay “sai”, “thiện” hay “ác” đó đã trở thành một bản năng tự nhiên không khác gì những bản năng khác đã thành hình qua quá trình tiến hóa của con người. Từ đó ta có thể nói rằng bản chất của một người vô thần không thể nào “vô đạo đức” hơn bản chất của một người hữu thần.
Sinh học gia David Wilson (State University – New York) cho rằng tôn giáo đóng góp một phần rất lớn trong việc đoàn kết các tập thể của con người sơ khai lại với nhau. Trong vòng 10 ngàn năm gần đây khi sự phát triển của nông nghiệp trở thành nền tảng của cơ cấu, nề nếp, giai cấp của xã hội loài người thì tôn giáo và đạo đức cũng đã phát triển song song với nhau để kết hợp những cơ cấu, nề nếp, giai cấp này lại chặt chẽ hơn.
Một trong những lợi thế để tôn giáo tồn tại và phát triển mạnh mẽ chính là vì tôn giáo giúp ích trong việc gắn bó cá nhân vào trong tập thể như vừa nói ở trên. Trong xã hội loài người xưa cũng như nay luôn luôn có vô số những hoạt động hay tổ chức có liên quan đến cái khuynh hướng “muốn/cần là thành viên của một tập thể” tiềm ẩn trong mỗi người chúng ta.
Cái cảm giác an lành, tốt đẹp khi biết mình là một thành phần của một tập thể xuất phát từ nhu cầu cần được an toàn dưới sự bảo vệ của đồng loại và nhu cầu cần bảo vệ đồng loại (để bảo vệ tập thể và sự sinh tồn của chính mình) từ thời tiền sử. Những ai đã tham dự các đại hội ca nhạc, các buổi lễ cúng đình làng, những buổi diễn binh, các hội đoàn thể thao, hàng ngũ quân sự, v.v. đều biết qua cái cảm giác này. Những câu nói như “tình nghệ sĩ”, “tình đồng bào ruột thịt”, “tình huynh đệ chi binh”, “tình đồng đạo”, v.v. đều diễn tả lên những ý nghĩa sâu kín của cái cảm giác này.
Tôn giáo còn có một lợi thế khác không kém phần quan trọng. Thí nghiệm cho thấy nhiều người khi đang thiền định, cầu nguyện hay khi đang “đắm mình cảm nhận đấng thiêng liêng” thì trong người họ toát ra một chất hormone gọi là oxytocin. Chất này có tác dụng làm người ta cảm thấy “phiêu diêu” và “hạnh phúc”. Chất này cũng hiện diện trong nhiều trường hợp khác, dưới các mức độ khác nhau, chẳng hạn như khi người ta đang thưởng thức một bài thơ hay, chứng kiến một tài nghệ tuyệt vời, thực hành một điều nghĩa khí, yêu thương hay đồng cảm cao độ với một người khác, v.v. Đây là điểm thu hút rất lớn của tôn giáo ngày nay vì nó thỏa mãn một trong những nhu cầu sâu xa nhất của tâm thức con người. Và đây có thể là lý do lớn mà nhiều tín đồ ngày nay vẫn còn bám víu vào tôn giáo mặc dù họ cũng nhận thấy những lãnh vực tai hại và tệ hại của nó.
Tóm lại, mặc dù tôn giáo không hẳn tối cần thiết trong việc đoàn kết xã hội hay làm nền tảng cho đạo đức, chúng ta vẫn phải nhìn thấy vai trò quan trọng của tôn giáo trong quá trình tiến hóa của nhân loại. Tuy rằng con đường vô thần là một lối đi thích đáng dựa trên lý trí, tôn giáo vẫn có ích lợi trong việc nhắc nhở và yểm trợ cái giá trị đạo đức cơ bản có sẵn trong mỗi người chúng ta.
Thiên Trúc