KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, THỜI ĐẠI CỦA CHIẾN THẮNG 30 THÁNG 4

Năm nay, trong những ngày hướng đến kỷ niệm Chiến thắng lịch sử vĩ đại 30/4/1975, nhân dân ta đón mừng sự kiện này với nhiều niềm vui mới. Theo báo cáo của Chính phủ, kinh tế Việt Nam năm 2018 khởi sắc trên cả ba khu vực sản xuất, cung - cầu của nền kinh tế cùng song hành phát triển.

NHẬN DIỆN VÀ NGĂN NGỪA THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG LÒNG YÊU NƯỚC ĐỂ KÍCH ĐỘNG NGƯỜI DÂN XUỐNG ĐƯỜNG BIỂU TÌNH, GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Người yêu nước chân chính là người biết sử dụng pháp luật, đạo đức, truyền thống tốt đẹp để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, đồng thời phải biết tôn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích chính đáng của người khác. Nhận diện được phương thức, thủ đoạn lợi dụng lòng yêu nước để kích động nhân dân làm việc xấu chính là nhằm đưa ra các biện pháp xử lý phù hợp, đồng thời tránh được sự lợi dụng đó để gây ra rối loạn xã hội, phức tạp tình hình.

Thông cáo Báo chí Kỳ họp 32 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương

Từ ngày 03 đến 06/12/2018 tại Hà Nội, Ủy ban kiểm tra Trung ương đã họp kỳ 32. Đồng chí Trần Cẩm Tú, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Trung ương chủ trì kỳ họp.

UBKTTW kết luận vụ AVG: Sai phạm của ông Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn là rất nghiêm trọng

UBKTTW vừa họp kỳ 26 kết luận vụ AVG có những vi phạm của Ban cán sự đảng Bộ TT-TT, ông Nguyễn Bắc Son, ông Trương Minh Tuấn, ông Phạm Đình Trọng, của Ban Thường vụ Đảng ủy Mobifone và các ông Lê Nam Trà, Cao Duy Hải là rất nghiêm trọng.

Bốn kỳ vọng thay đổi lớn về công tác cán bộ sau 4 ngày Hội nghị T.Ư 7

Sau 4 ngày làm việc, Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đã thảo luận nhiều nội dung quan trọng được dư luận đặc biệt quan tâm, trong đó có công tác cán bộ, bởi đây là vấn đề “nóng” trong tình hình hiện nay.

Hiển thị các bài đăng có nhãn đấu tranh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn đấu tranh. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 28 tháng 10, 2024

Bác bỏ luận điệu sai trái “ở Việt Nam quyền lực nhà nước không thuộc về nhân dân”

Những luận điệu và thủ đoạn phản ánh sai lệch về quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay đều xuất phát từ những tổ chức, cá nhân chống cộng cực đoan, chống chủ nghĩa xã hội và cơ hội về chính trị. Động cơ và mục đích chính trị của họ cũng không ngoài mục đích phủ nhận thành quả của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong gần 80 năm qua.

1. Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cả hệ thống chính trị vào cuộc thực thi quyền lực nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; đồng thời luôn thống nhất trong lãnh đạo tổ chức thực hiện, nhằm góp phần bảo đảm quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân. Chủ trương đó không phải là khẩu hiệu suông, càng không phải là việc “đấu đá, triệt hạ phe cánh” như những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Trước mỗi kỳ đại hội Đảng, các đối tượng chống phá lại đơm đặt, dựng chuyện và xuyên tạc rằng: “Ở Việt Nam quyền lực nhà nước không thuộc về nhân dân”.
Sự thật lịch sử và quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam đã bác bỏ, phủ nhận những luận điệu xuyên tạc, chống phá đó.
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, thiết lập nên những thiết chế căn bản đầu tiên của một nhà nước dân chủ nhân dân-khởi đầu của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Điều 1 của Hiến pháp năm 1946 khẳng định tính chất của Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.
Trong suốt quá trình cùng với Đảng, Nhà nước và nhân dân tổ chức, xây dựng hệ thống quyền lực ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn nhấn mạnh và thực hành tư tưởng: “Nước ta là nước dân chủ/ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân/ Bao nhiêu quyền hạn đều của dân/ Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân/ Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân/ Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra/ Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên/ Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
Như vậy, có thể thấy, từ những văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nước và người đứng đầu Nhà nước ta đã xác nhận, hệ thống chính trị XHCN nước ta luôn khẳng định chủ thể thật sự, chủ thể đích thực và chủ thể tối cao của Nhà nước và của tất cả quyền lực nhà nước là nhân dân. Điều này có nghĩa rằng, ở Việt Nam, quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ nhân dân và cho dù bất cứ cơ quan, cá nhân nào nắm giữ thì quyền lực nhà nước cũng đều có nguồn gốc từ sự ủy quyền của nhân dân. Không có thứ quyền lực nhà nước nào có nguồn gốc tự thân, nằm ngoài sự trao quyền, ủy quyền của nhân dân.

Kiên quyết đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc


2. Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và quyền lực nhà nước, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn chú trọng hiện thực hóa chủ trương “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” thành cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội. Đảng thực thi quyền lực chính trị của các giai tầng xã hội mà mình đại diện bằng cách tác động vào Nhà nước, để thông qua Nhà nước hiện thực hóa quyền, lợi ích và ý chí của các giai tầng xã hội.
Trong lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, đường lối lãnh đạo thực hiện lĩnh vực này. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến.
Hiến pháp năm 2013 hiến định: “1) Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; 2) Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; 3) Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện những quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Điều 2). Về hình thức: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” (Điều 6). Để bảo đảm quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân, Điều 8 Hiến pháp năm 2013 hiến định: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền”.
Những năm qua, trong đời sống chính trị-pháp lý ở Việt Nam, việc kiểm soát quyền lực nhà nước đã trở thành nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị. Hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội và của các cơ quan Quốc hội, đại biểu Quốc hội được quan tâm tăng cường; công tác thanh tra, kiểm tra phục vụ quản lý nhà nước trong bộ máy hành pháp đã được đẩy mạnh, góp phần không chỉ nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước mà còn trực tiếp đấu tranh phòng, chống tham nhũng có hiệu quả. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội và nhất là vai trò, quyền làm chủ của nhân dân đã được bảo đảm thực thi thực chất, đầy đủ theo phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát, dân thụ hưởng”. Công tác kiểm tra, kỷ luật Đảng đã được kết hợp chặt chẽ với việc thực thi các cơ chế thanh tra, kiểm soát bằng pháp luật. Công tác phòng, chống tham nhũng, chống tha hóa quyền lực được tiến hành đồng bộ, bài bản, ngày càng hiệu quả. Việc xử lý các hành vi, đối tượng tham nhũng bảo đảm nghiêm khắc nhưng cũng nhân văn, có lý, có tình, kết hợp “xây” và “chống”, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai, làm gì; không còn tư tưởng “hạ cánh an toàn”, làm bước nào chắc bước đó, vi phạm đến đâu, xử lý đến đó, kỷ luật Đảng trước, kỷ luật hành chính, hình sự sau; bảo đảm phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ.
Với bước đi có lộ trình, phù hợp và kiên quyết, Việt Nam đã đạt được kết quả to lớn trong công tác phòng, chống tham nhũng. Qua đó, xử lý dứt điểm, kịp thời, nghiêm minh trước pháp luật nhiều vụ án, vụ việc nghiêm trọng, phức tạp, trong đó, có nhiều cán bộ cấp cao của Đảng, Nhà nước, điều đó cho thấy, sự quyết tâm của Đảng đối với xử lý tham nhũng, tiêu cực trong thực thi quyền lực nhà nước, góp phần củng cố niềm tin của các tầng lớp nhân dân.
3. Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân là kết quả thực hành tư tưởng pháp quyền xã hội chủ nghĩa sáng suốt và rõ ràng, được định hướng bởi lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, được Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo trực tiếp, toàn diện về mọi mặt, được Nhà nước Việt Nam hiện thực hóa trong các chính sách và luật pháp; được đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước thực thi hiệu lực và hiệu quả; được nhân dân và các đoàn thể chính trị-xã hội trực tiếp giám sát, tham gia, quản lý bằng những cơ chế, chính sách phù hợp.
Như vậy, cả lịch sử hình thành nhà nước, xây dựng, hiến định những tư tưởng pháp quyền XHCN đầu tiên đến quá trình tổ chức hiện thực hóa, thực thi trong đời sống chính trị, xã hội và pháp lý; cùng với sự bổ sung, phát triển ở những giai đoạn tiếp theo cho thấy, ở Việt Nam quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là sự tiếp nối mà còn là một sự bổ sung, phát triển và khẳng định sự kiên định nhất về chủ trương, đường lối thực thi quyền lực nhà nước của nhân dân, hoàn toàn không có sự xa rời và đối nghịch với tư tưởng pháp quyền XHCN mà Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng đã đề ra, đó là xây dựng nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.
Những luận điệu và thủ đoạn phản ánh sai lệch về quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay đều xuất phát từ những tổ chức, cá nhân chống cộng cực đoan, chống chủ nghĩa xã hội và cơ hội về chính trị. Động cơ và mục đích chính trị của họ cũng không ngoài mục đích phủ nhận thành quả của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong gần 80 năm qua. Mưu đồ sâu xa là lợi dụng bàn luận về những vấn đề dân chủ của đất nước, lợi dụng việc góp ý vào chủ trương, đường lối, chính sách, nhất là văn kiện của các kỳ đại hội Đảng để xuyên tạc, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với việc xây dựng chế độ và Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.
Những quan điểm, thái độ và hành động chính trị phản động, thù địch đó tất yếu sẽ bị thất bại, không chỉ bởi tất cả quyền lực của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam hiện nay đã thuộc về nhân dân, mà còn bởi sự nhận thức chính trị của nhân dân Việt Nam hiện nay đã phát triển hơn hẳn những giai đoạn trước; đồng thời nhờ vào chính những thành quả cách mạng to lớn mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục phát huy trong thời kỳ mới.
Đại tá PHẠM ĐỨC ĐẠT, Phó trưởng phòng Thông tin khoa học quân sự, Học viện Chính trị
Vấn đề đa chiều

Thứ Bảy, 11 tháng 5, 2019

ĐẤU TRANH, NGĂN CHẶN CÁC TÀ ĐẠO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY


Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo. Những năm qua, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm, tạo điều kiện, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, trong đó có cả người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam.

ĐẤU TRANH, NGĂN CHẶN CÁC TÀ ĐẠO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Các đối tượng của Hội thánh Đức chúa trời truyền đạo trái phép.
Tuy nhiên, các thế lực thù địch đã tìm cách hình thành, phát triển các tà đạo nhằm xâm phạm an ninh chính trị (ANCT), trật tự an toàn xã hội (TTATXH), chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; qua đó nhằm hình thành các lực lượng đối lập với Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Nhận diện tà đạo

Theo Từ điển tiếng Việt: “Tà đạo là đạo giáo chuyên dùng bùa phép mê hoặc người; đường lối sai quấy không chính đáng”. Còn theo Đại từ điển tiếng Việt: “Tà đạo: Tôn giáo khác với tôn giáo được coi là chính thống”. PGS, TS Đặng Văn Đoài, Hiệu trưởng Trường Đại học An ninh nhân dân định nghĩa: “Tà đạo là một loại đạo lạ (so với tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống) nhưng khuynh hướng hoạt động mê tín dị đoan, phản văn hóa, vi phạm pháp luật”.
Ở Việt Nam, những năm qua, tà đạo thường xuất hiện và phát triển mạnh ở vùng nông thôn, vùng sâu xa, nhất là địa bàn Tây Nam Bộ, Tây Nguyên, Tây Bắc. Các tổ chức này đã thu hút được một số lượng người tin theo, trong đó có tà đạo đã lôi kéo hàng nghìn người tham gia, sinh hoạt tại nhiều địa phương, như: Tin lành Đề Ga, Hà Mòn, Pháp Luân Công và đặc biệt gần đây là tà đạo Hội Thánh đức Chúa Trời, dù mới chỉ xuất hiện tại Việt Nam chưa lâu, song, đã phát triển mạnh và hoạt động bất hợp pháp ở hơn 20 tỉnh, thành phố với hàng nghìn người tham gia, nhất là ở Hải Phòng, Quảng Ninh, Ninh Bình, Thái Bình, Thanh Hóa… Việc tuyên truyền, phát triển tà đạo đã ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội, gây tâm lý bức xúc, hoang mang trong một bộ phận quần chúng và tín đồ các tôn giáo, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, làm phức tạp tình hình ANCT - TTATXH tại địa phương.
Qua nghiên cứu, căn cứ theo địa bàn xuất hiện, nguồn gốc xuất xứ và nội dung, phương thức hoạt động, có thể phân chia tà đạo thành hai nhóm chính: Nhóm thứ nhất có nguồn gốc hình thành liên quan đến các tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, điển hình như các tà đạo: Tin lành Đề Ga, Hà Mòn, Giáo hội Tin lành đấng Christ Việt Nam... có nguồn gốc và bản chất liên quan đến Tin lành; các tà đạo: Đạo Tràng Hương Quảng, Pháp môn Di Lặc, Bửu Tòa Tam giáo... có nguồn gốc và bản chất gắn với Phật giáo, Đạo giáo. Nhóm thứ hai có nguồn gốc từ nước ngoài truyền vào Việt Nam, như: Thanh Hải Vô Thượng sư, Pháp Luân Công, Canh tân đặc sủng... Nhóm này mang tính lai tạp giữa một số tôn giáo khác nhau, như: Phật giáo, Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian. Dù thuộc nhóm nào thì đặc điểm chung của các tà đạo này luôn tự coi mình là một tổ chức tôn giáo; giáo lý của họ chỉ là sự vay mượn hay chính xác hơn là xuyên tạc, bóp méo giáo lý của các tôn giáo khác theo hướng mê tín dị đoan để phục vụ cho ý đồ của những kẻ cầm đầu; giáo lý, lễ nghi của các tà đạo thường đơn giản, không có hệ thống và hoàn chỉnh như tôn giáo truyền thống, hàm chứa yếu tố mê tín, có màu sắc chính trị.

Từ trục lợi đến chống phá

Người tin theo các tà đạo thuộc nhiều thành phần như: Trí thức, cán bộ, viên chức và công nhân, nông dân, nhưng chủ yếu là người nghèo, có trình độ dân trí thấp; họ bị số đối tượng cầm đầu lợi dụng, lừa mị, lôi kéo tham gia. Các đối tượng sáng lập, cầm đầu và cốt cán thường là những chức sắc, chức việc và tín đồ có uy tín trong tôn giáo, dân tộc, thậm chí cả số đối tượng bất mãn, cơ hội chính trị. Mục đích chính của việc hình thành và phát triển tà đạo là nhằm mục đích trục lợi cá nhân thông qua sự giúp đỡ, đóng góp tiền của, công sức của những người tin theo tà đạo. Số đối tượng cầm đầu thường triệt để lợi dụng những vấn đề bức xúc, khó khăn mà người dân không tự giải quyết được để tác động, lôi kéo họ dựa vào niềm tin tâm linh nhằm giải thoát những vướng mắc về tâm lý và tư tưởng đang nảy sinh. Hoạt động của các tà đạo chủ yếu nhằm thực hành các hoạt động mê tín dị đoan, thực hành tín ngưỡng phản khoa học, phi đạo đức và văn hóa nhằm thu lợi bất chính, như yêu cầu người tin theo phải đóng góp tiền của, công sức xây dựng mới hay tu sửa nơi thờ tự, phục vụ hoạt động duy trì và phát triển tổ chức của các đối tượng cầm đầu, cốt cán. Riêng đối với một số tà đạo như: Tin lành Đề Ga, Hà Mòn… các đối tượng cầm đầu, cốt cán thu hút, lôi kéo người tham gia tổ chức nhằm chống phá chính quyền, cản trở việc thực hiện các chính sách phát triển kinh tế-xã hội, xâm phạm ANCT-TTATXH tại địa phương.
Để nắm giữ niềm tin của những người tham gia, đồng thời ép buộc hoặc tiếp tục thu hút những người khác trong gia đình họ phải đi theo tà đạo, số cầm đầu, cốt cán của các tà đạo thường yêu cầu và buộc số người tin theo không được tiếp xúc và quan hệ với người khác niềm tin; không tham gia các sinh hoạt văn hóa chung của cộng đồng; không thực hiện phong tục tập quán và tín ngưỡng truyền thống của dân tộc, đồng thời phủ nhận các tôn giáo chính thống, kể cả tôn giáo đó là nguồn gốc của mình để tin và trung thành với tổ chức tà đạo; không chấp hành pháp luật hay tham gia các chương trình, chính sách phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương. Một số tà đạo mang màu sắc chính trị như: Tin lành Đề Ga”, Hà Mòn, Thanh Hải Vô Thượng sư..., số đối tượng cầm đầu, cốt cán ráo riết kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, phân biệt, chia rẽ người Kinh với người dân tộc nhằm thu hút người dân để thực hiện mưu đồ ly khai, tự trị ở các vùng dân tộc, hình thành tổ chức phản động chống phá Nhà nước Việt Nam, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc; điển hình như vụ biểu tình, bạo loạn ở Tây Nguyên năm 2001, 2004 do Tin lành Đề Ga tổ chức. Ở một số nơi, số đối tượng cầm đầu các tà đạo như: Thanh Hải Vô Thượng sư, Hà Mòn… còn vu cáo chính quyền vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tìm cách khoét sâu hoặc phóng đại những hạn chế, thiếu sót của chính quyền và cán bộ, đảng viên trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo; vu cáo Nhà nước vi phạm dân chủ, nhân quyền; tạo cớ cho bên ngoài can thiệp, chống phá Nhà nước Việt Nam. Có thể khẳng định, các tà đạo đã gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội, tuyên truyền mê tín dị đoan, kích động tâm lý hoang mang, dao động trong quần chúng nhân dân, làm phức tạp tình hình chính trị tại địa phương, truyền bá những đức tin phản khoa học, phản văn hóa và chuẩn mực chung về đạo đức, lối sống. Đặc biệt, thông qua hoạt động của các tà đạo, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh thực hiện âm mưu lợi dụng vấn đề tôn giáo chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kích động tư tưởng ly khai nhằm chống phá Việt Nam.

Đấu tranh, đẩy lùi và ngăn chặn

Trong những năm qua, các cơ quan chức năng đã triển khai đồng bộ các biện pháp đấu tranh, ngăn chặn hoạt động của các tà đạo; trong đó đã chủ động nắm tình hình các địa bàn, đối tượng trọng điểm về dân tộc, tôn giáo để triển khai các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng trái pháp luật. Thông qua nhiều kênh, bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú, các cơ quan chức năng đã tuyên truyền, vận động quần chúng không tin, theo kẻ xấu lôi kéo, lừa bịp tham gia tổ chức tà đạo; thấy rõ tác hại của việc tham gia các tà đạo để từ đó tự giác tham gia công tác phòng ngừa, đấu tranh chống các tà đạo. Chủ động xử lý nghiêm số đối tượng cầm đầu, cốt cán theo pháp luật, đồng thời vạch mặt, làm rõ bản chất chúng trước nhân dân. Tuy nhiên, công tác phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động của các tà đạo thời gian qua còn tồn tại những hạn chế nhất định. Theo đó, để nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn sự hình thành, phát triển của các tà đạo trong thời gian tới, cần tập trung làm tốt công tác đấu tranh, phòng, chống sự hình thành, phát triển của các tà đạo; đồng thời tiến hành song song với công tác bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân trên cơ sở pháp luật và phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối của Đảng Cộng sản Việt Nam; sự quản lý, điều hành của Chính phủ nhằm phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong công tác này. Tiếp tục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về vị trí, vai trò công tác đấu tranh, ngăn chặn hoạt động của các tà đạo, qua đó nhằm huy động sự tham gia của cả xã hội trong công tác này.
Các cơ quan chức năng cần thực hiện tốt công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo, đặc biệt là quản lý và định hướng các sinh hoạt, hoạt động tín ngưỡng theo thuần phong mỹ tục của dân tộc và phù hợp với luật pháp. Đối với những đối tượng chủ mưu, cầm đầu các tà đạo, các cơ quan chức năng phải xử lý kiên quyết, kịp thời, triệt để theo pháp luật; vạch trần bản chất và hành vi vi phạm pháp luật, làm mất ổn định chính trị, xã hội, chia rẽ giữa các dân tộc, tôn giáo, lợi dụng danh nghĩa tôn giáo để hoạt động tà đạo, mê tín dị đoan của số này trước quần chúng nhân dân. Tăng cường xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần phong phú, lành mạnh cho mọi người dân nhằm tạo “sức đề kháng”, “miễn dịch” mạnh mẽ trước hoạt động của các tà đạo.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam; về thành tựu đã đạt được trong việc bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Đặc biệt, cần tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người dân, làm cho người dân hiểu rõ đâu là chính đạo, đâu là tà đạo, tác hại của các tà đạo đối với đời sống vật chất, tinh thần của người dân và toàn xã hội. Từ đó vận động cán bộ, đảng viên và nhân dân tự giác tham gia công tác phòng ngừa, đấu tranh chống hoạt động của các tà đạo.
Chủ động triển khai nắm tình hình, dự báo kịp thời mọi âm mưu, hoạt động lôi kéo, thu hút người tham gia các hội nhóm tà đạo để triển khai các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh. Kịp thời phát hiện, phối hợp giải quyết dứt điểm các hoạt động tụ họp nhóm hoặc có hoạt động liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo không được cơ quan chức năng cho phép để vận động quần chúng giải tán, đồng thời cô lập, răn đe những kẻ cầm đầu, cốt cán trong hội nhóm tà đạo. Trong xử lý các vụ việc liên quan đến tà đạo phải bảo đảm những yêu cầu đặt ra nhằm tranh thủ được sự ủng hộ rộng rãi của cán bộ, đảng viên và nhân dân, kiên quyết không làm phức tạp thêm tình hình, không để sơ hở để bên ngoài lợi dụng vu cáo, xuyên tạc.
Tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo… kết hợp với thực hiện công bằng xã hội, không ngừng nâng cao trình độ dân trí, đặc biệt là đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, bảo đảm ổn định ANCT - TTATXH tại địa phương. Tăng cường đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục truyền thống yêu nước, vận động đông đảo các chức sắc, tín đồ và nhân dân tích cực tham gia các hoạt động phát triển kinh tế, xã hội và các phong trào thi đua yêu nước tại địa phương.
 TÂN LONG

Thứ Sáu, 1 tháng 3, 2019

MẤY VẤN ĐỀ VỀ ĐẤU TRANH TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG HIỆN NAY

Đấu tranh trên không gian mạng (KGM) là một “mặt trận” quan trọng để bảo vệ Tổ quốc XHCN. Bởi các thế lực thù địch, bao gồm phản động, cơ hội chính trị, xét lại lịch sử đã và đang triệt để lợi dụng thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ (công nghệ số, Internet) để ngày đêm tung ra những luận điệu xuyên tạc, bôi đen chế độ ta; liên kết, hình thành các tổ chức đối lập, các thế lực “ngầm” để chống phá Đảng, Nhà nước, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự tồn tại, phát triển các trang “đen” và hoạt động xuyên tạc, kêu gọi biểu tình, kích động bạo lực chống phá của chúng đã minh chứng cho nhận định này.

MẤY VẤN ĐỀ VỀ ĐẤU TRANH TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG HIỆN NAY

Nhận thức rõ tầm quan trọng của cuộc đấu tranh trên KGM, Đảng, Nhà nước ta đã không chỉ coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục mà còn tiến hành các biện pháp chính trị - pháp lý để đấu tranh: Ban hành Luật An ninh mạng, thành lập các cơ quan, lực lượng chuyên trách như: Bộ Tư lệnh tác chiến KGM của Bộ Quốc phòng; Cục An ninh mạng của Bộ Công an... Để góp phần vào cuộc đấu tranh này, đã hình thành cộng đồng đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc trên KGM. Sự tham gia đó của người dân có ý nghĩa rất quan trọng, đóng góp to lớn vào phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Song do tính tự phát, thiếu tổ chức và do nhiều nguyên nhân khác, nhất là trình độ nhận thức chính trị, kinh nghiệm đấu tranh... dẫn đến hiệu quả chưa được như mong muốn, còn nhiều bất cập, hạn chế, thậm chí nửa vời...
Trước yêu cầu mới đặt ra, để sự tham gia đấu tranh của bà con yêu nước chân chính trên KGM đạt hiệu quả cao hơn, xin đề cập mấy vấn đề mang tính trao đổi, mong được bà con quan tâm, chia sẻ rộng rãi:
- Luôn nắm vững, nhất quán với đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước trong mọi phát ngôn (bài nói, bài viết, comment). Vì vậy, cần nghiên cứu tìm hiểu nắm vững đường lối, chính sách, pháp luật. Làm được điều này, kẻ xấu sẽ không có đất để xuyên tạc, quy chụp.
- Chấp nhận “dấn thân”, xác định hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích chung của Tổ quốc, vì sự nghiệp cách mạng, cho dù có bị kẻ thù tìm mọi thủ đoạn đê hèn như khủng bố, đe dọa...
- Nêu cao đoàn kết, thống nhất, nhân ái, tương trợ giúp đỡ nhau trên tình giai cấp, tình đồng chí, đồng đội, bỏ qua những khác biệt đặc thù mang tính văn hóa vùng miền, địa phương, cá nhân.
- Nhạy bén, cảnh giác cao với những đánh phá phong trào yêu nước trên KGM, như:
+ Giả danh yêu nước, dùng tiền, vật chất mua chuộc dưới mọi hình thức, biến thành tay sai của chúng.
+ Giả danh yêu nước dưới vỏ bọc sử dụng avatar là hình ảnh biểu tượng cách mạng như hình lãnh tụ, cờ Đảng, cờ Tổ quốc (cờ đỏ sao vàng) trong trang Facebook cá nhân hoặc khi livestream để lừa cộng đồng.
+ Rêu rao luận điệu bảo vệ Đảng, chế độ XHCN, song cắt xén, xuyên tạc; dẫn bằng chứng thực nhưng suy diễn làm sai lệch bản chất. Thực chất là ngụy tạo, bôi đen chế độ.
+ Vin lý do quy định của luật pháp không cho phép thành lập hội nhóm để đánh phá các nhóm yêu nước tự phát của những người yêu nước đích thực liên kết với nhau nhằm tạo sức mạnh. Trong khi chúng lại ngấm ngầm liên kết chặt chẽ, hình thành các “tổ chức đối lập” ngầm, có tổ chức chỉ huy, chỉ đạo, cung cấp tài chính, trang bị kỹ thuật để hoạt động phá hoại. Đây là chiêu trò cực kỳ nguy hiểm...
- Có phương thức đấu tranh hiệu quả:
+ Thực hiện “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Không xa rời nguyên tắc chiến lược, đó là mục tiêu cách mạng, song luôn mềm dẻo, linh hoạt về sách lược, tùy đối tượng, hoàn cảnh cụ thể.
+ Dựa vào tổ chức để đấu tranh. Đây là vấn đề mấu chốt bảo đảm cho sự thắng lợi, bởi không có tổ chức thì không có sức mạnh. Tổ chức để chúng ta dựa vào là tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị - xã hội. Chúng ta cần tranh thủ sự định hướng từ các tổ chức chính danh đó, đồng thời đó là nơi chúng ta cung cấp thông tin khi phát hiện các “dấu hiệu” phản động, cơ hội chính trị giúp các cơ quan chức năng xử lý theo đúng quy định của pháp luật. Vì thế cấp ủy Đảng, chính quyền đoàn thể các cấp cần quan tâm thực sự đến cuộc đấu tranh của quần chúng yêu nước đích thực trên KGM, có giải pháp bảo vệ người đấu tranh, có kênh trực tiếp hoặc gián tiếp (đường dây nóng) để quần chúng kịp thời phản ánh.
+ Sử dụng ngôn ngữ đấu tranh cần chọn lọc, bảo đảm tính khoa học, tính chính trị và văn hóa để tránh kẻ thù quy kết, bởi cách mạng của chúng ta là “đạo đức và văn minh”.
Trên đây là mấy vấn đề xin trao đổi và mong được bà con yêu nước chân chính sẻ chia. Xin trân trọng! 

Nguyên Hà

Thứ Hai, 9 tháng 10, 2017

Che Guevara – một cuộc đời, một hành trình lịch sử

Trong vô số hình ảnh mà người ta thường nhớ về Che Guevara , không thể thiếu hình ảnh của một chiến sĩ quốc tế, luôn xả thân bảo vệ những người yếm thế.

Nửa thế kỷ sau khi bị sát hại tại La Higuera, Bolivia, “Che” Guevara vẫn tiếp tục là một trong những hình ảnh chính trị mang tính toàn cầu nhất. Không chỉ tại Cuba – nơi hình ảnh ông ngự trị từ các quảng trường trung tâm, các cơ sở công trên khắp cả nước cho tới cả móc đeo chìa khóa hay áo phông lưu niệm cho du khách, mà hầu như ở mọi phong trào xã hội trên thế giới đều xuất hiện hình ảnh mang tính biểu tượng của “Người du kích anh hùng”.
Ra đi khi ở tuổi đời 39, nhưng “Che” Guevara để lại một di sản cách mạng đồ sộ mà ít có nhân vật chính trị nào có được trong lịch sử thế giới hiện đại, và trong vô số hình ảnh mà người ta thường nhớ về ông, không thể thiếu hình ảnh của một chiến sĩ quốc tế, luôn xả thân bảo vệ những người yếu thế.
Ernesto “Che” Guevara de la Serna sinh ngày 14/6/1928 tại thành phố Rosario, Argentina và là anh cả trong 5 người con của vợ chồng kiến trúc sư Ernesto Guevara Lynch và Celia de la Serna, một gia đình thuộc giới thượng lưu của quốc gia Nam Mỹ khi đó rất giàu có này. Khi mới 2 tuổi, cậu bé Guevara đã mắc bệnh hen suyễn và căn bệnh đã vô tình biến cậu thành một người đọc sách ham mê khi còn rất nhỏ vì “bố mẹ bắt cậu thường xuyên ở trong nhà và trải qua nhiều giờ xông hơi liên tục buôn chán để tránh những cơn hen”. Tuổi thơ của cậu trôi qua một cách khá bình lặng và chủ yếu tại tỉnh Cordoba, phía Bắc Argentina, nơi gia đình cậu chuyển tới vì có khí hậu dễ chịu cho người hen suyễn.
Năm 1946, “Che” nhập học tại Khoa Y, Đại học Buenos Aires. Anh cố gắng tự lập và vừa đi học vừa đi làm thuê tại một thư viện công cộng. Sau đó vào năm 1951, “Che” làm thủy thủ tập sự trên một tầu chở dầu mang tên Anna G và tới được nhiều hải cảng của Argentina, Brasil, Venezuela, Trinidad và Tobago, và Guyana.
Một năm sau, “buồn chán với Khoa Y, bệnh viện và những bài kiểm tra” “Che” cùng người bạn đồng môn và từ thuở thiếu thời Alberto Granados đi ngao du Chile, Peru, Venezuela và Bolivia, thăm các mỏ đồng, các ngôi làng của những cộng đồng thổ dân và các trại phong, trong đó, những nhà khám phá trẻ tuổi đặc biệt ấn tượng với tình trạng lạc hậu, nghèo đó và bị bỏ rơi của những người nông dân thuộc sắc tộc thiểu số Quechua và Aymara tại Peru, nơi những tên địa chủ và cường hào luôn thẳng tay bất cứ ai dám đứng lên đòi thay đổi hiện trạng.
Cũng tại Peru, “Che” đã gặp bác sĩ chuyên khoa phong Hugo Pesce Pescetto, một người theo tư tưởng Mác-xít, đồng chí của nhà tư tưởng Mác-xít lỗi lạc người Peru José Carlos Mariátegui. Một thập kỷ sau (1960) “Che” đã thừa nhận ảnh hưởng Pesce trong quá trình hình thành tư tưởng cách mạng của mình khi gửi cho người bạn vong niên này bản in cuốn sách đầu tay của mình “Chiến tranh du kích”, với lời đề tựa: “Kính tặng bác sĩ Hugo Pesce, người đã khơi dậy trong tôi, mặc dù có thể ông không biết điều đó, một thay đổi lớn về thái độ đối với cuộc sống và xã hội, với nhiệt huyết phiêu lưu luôn có sẵn nhưng giờ đây đã được định hướng tới những mục đích hài hòa hơn với những nhu cầu của châu Mỹ”.
Trở về Argentina, “Che” tốt nghiệp Khoa Y năm 1953 và ngay lập tức lên đường sang Bolivia với lòng háo hức được nhìn tận mắt cuộc cách mạng dân tộc tại đây, tiến trình lịch sử đã đưa Phong trào Dân tộc cách mạng lên cầm quyền (1952 – 1964),  mặc dù sau đó ông đã thất vọng khi chứng kiến những người thổ dân Bolivia tiếp tục bị gạt sang bên lề xã hội, sống trong nghèo khó và các điều kiện tồi tàn không khác gì mấy so với thời thuộc địa Tây Ban Nha.
Từ Bolivia, “Che” đã tới Guatemala vào cuối năm 1953, nơi tổng thống mang tư tưởng tiến bộ Jacobo Arbenz đã dũng cảm quốc hữu hóa những cơ sở của tập đoàn nông nghiệp hùng mạnh United Fruit Co. của Mỹ (tập đoàn xuyên quốc gia nắm giữ ngành kinh tế then chốt là trồng trọt và thương mại hoa quả, rau màu của đa số các nước Trung Mỹ khi đó). Tại đây, “Che” đã gặp gỡ Hilda Gadea (1925-1974), nữ chính trị gia và nhà kinh tế theo tư tưởng cách mạng người Peru, người đã giới thiệu ông với các phong trào cánh tả và cách mạng và sau này (1955) trở thành người vợ đầu tiên của ông.
Cũng tại Guatemala, “Che” đã gặp gỡ Antonio “Ñico” López Fernández cùng một số đồng chí khác hoạt động trong phong trào của Fidel Castro (chính “Ñico” López là người đã đặt biệt danh “Che” cho ông – đây là một danh xưng đặc trưng của tiếng Tây Ban Nha tại Argentina, chỉ người đối thoại trực tiếp một cách thân mật như “cậu” đối với “tớ” và “ông” đối với “tôi” trong tiếng Việt; do các nước nói tiếng Tây Ban Nha khác không sử dụng từ này nên khi “Che” dùng từ này trong đối thoại với các đồng chí khác quốc gia, nó đã trở thành đặc trưng của ông lúc đó).
Sau cuộc đảo chính lật đổ chính phủ của tổng thống Arbenz do CIA tiến hành năm 1954, những người ủng hộ cải cách xã hội bị đàn áp dã man, “Che” và người bạn đời của mình buộc phải chạy sang Mexico, nơi vào năm 1955 lần đầu tiên ông gặp anh em Fidel và Raúl Castro, những thủ lĩnh của Phong trào 26/7, những người đang chuẩn bị cuộc đột kích trở lại Cuba.
Lúc này, ngọn lửa cách mạng của “Che” thực sự bùng cháy, ông nhiệt tình giúp đỡ công việc chuẩn bị và sau đó tham gia vào kế hoạch vũ trang này. Cuộc tao ngộ này chính là bước ngoặt đưa “Che” “từ chân trời hạn hẹp của chủ nghĩa dân tộc Mỹ Latinh thành một nhà cách mạng châu lục”. Sau nhiều khó khăn, thậm chí từng một lần bị các điệp viên của CIA và của chế độ độc tài Cuba Batista bắt giữ tại thủ đô Mexico, cuối cùng ngày 25/11/1956, con tầu Granma quá tải với 82 chiến sĩ vũ trang, trong đó có Fidel, Raúl và “Che” đã rời cảng Tuxpan tiến về Cuba.
Đã có rất nhiều tác phẩm nói về quá trình chiến đấu của đội quân du kích do Fidel Castro lãnh đạo từ Sierra Maestra (Rặng Núi Thầy) lan ra toàn quốc, trong đố “Che” Guevara nổi bật như một chiến sĩ can trường và kỷ luật, từng 2 lần bị thương, và được phong cấp bậc cao nhất trong quân đội du kích là “Tư lệnh cấp cao”. Ông sử dụng bí danh “Lính bắn tỉa” trong các bài viết đăng trên tờ báo của lực lượng du kích “Người Cuba tự do”.
Ngày 1/1/1959, Cách mạng Cuba thành công. Cũng trong năm đó, “Che” thành hôn lần thứ 2 với nữ chiến sĩ du kích Aleida March mà ông đã quen trong quá trình chiến đấu, và sau này họ có 4 người con (Aleida, Camilo, Celia và Ernesto). Với người vợ đầu Hilda Gadea, với người mà ông có 1 người con gái (Hilda), ông vẫn giữ một mối quan hệ thân thiện và còn mời 2 mẹ con tới sống và làm việc tại Cuba.
Nhưng không chỉ nổi bật trong chiến đấu, “Che” còn có những đóng góp rất có giá trị vào lý luận cách mạng. Ông đã viết một số lượng lớn các bài báo, tiểu luận, diễn văn với chứa đựng nhiều tư tưởng cách mạng và nhân văn. Ông tham gia vào quá trình xây dựng đất nước Cuba cách mạng cho tới năm 1965, trong đó ông từng đảm nhiệm cương vị lãnh đạo Viện Cải cách nông nghiệp quốc gia, Chủ tịch Ngân hàng Trung ương, Bộ trưởng Công nghiệp và dẫn đầu một số phái đoàn ngoại giao. Tại mỗi nhiệm vụ phức tạp được giao phó, ông đều vận dụng những khái niệm đầy sáng tạo theo phong cách cách mạng, nhưng đồng thời vẫn luôn giữ tôn chỉ là người tiếp nối trung thành của chủ nghĩa Mác-xít Lê-nin-nít.
“Che” đã đề ra ý tưởng rằng Cách mạng không chỉ tạo điều kiện cho những thay đổi xã hội mà còn cả sự ra đời của một “con người mới”. Trong bài viết “Chủ  nghĩa xã hội và con người tại Cuba” (1965), ông chỉ ra rằng không phải chờ đợi những thay đổi xã hội và kinh tế tự thay đổi con người, mà phải thúc đẩy quá trình phát triển “một ý thức trong đó các giá trị chuẩn phải vươn lên cấp độ mới” tương thích với quá trình biến đổi đang diễn ra trong xã hội.
Về nhu cầu thành lập và cơ cấu một chính đảng từ phong trào du kích, “Che” trong bài viết “Đảng Mác-xít Lê-nin-nít” (1963) đã đề xuất rằng chính đảng này phải là “công cụ để thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, là đội tiên phong của giai cấp công nhân, lãnh đạo giai cấp này, vạch ra con đường tiến tới thắng lợi… và nhiệm vụ của Đảng là tìm ra con đường ngắn nhất để đạt được chuyên chính vô sản”, và khẳng định rằng để thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, cần phải có một Đảng Cộng sản.
Theo hướng đi này, ông đã tham gia vào các vận động hợp nhất Phong trào 26/7, Ban lãnh đạo Cách mang 13/3 và Đảng Xã hội chủ nghĩa nhân dân, thành Các Tổ chức Cách mạng hợp nhất năm 1961, sau đổi thành Đảng Đoàn kết Các mạng xã hội chủ nghĩa Cuba vào năm 1962 và từ ngày 3/10/1965, là Đảng Cộng sản Cuba. “Che” cũng chỉ ra rằng để đạt được mục đích của mình, Đảng phải vận dụng các biện pháp và phong cách để luôn luôn “gắn bó mật thiết với quần chúng, nắm bắt khát vọng và ý tưởng của quần chúng, vận dụng nghiêm khắc kỷ luật Đảng trên nguyên tắc dân chủ tập trung và đồng thời, phải có tranh luận, phê và tự phê một cách cởi mở”.
Nhiều người, kể cả những người hâm mộ ông, thường nói về “Che” như một hình tượng của chủ nghĩa anh hùng phiêu lưu, ưa thích mạo hiểm, một dạng “Robin Hood” của thời hiện đại, dẫn đầu một nhóm chiến binh nhỏ chiến đấu một cách can đảm (nhưng tuyệt vọng) theo hình thức du kích chống lại những kẻ áp bức.
Trên thực tế, di sản của ông còn quan trọng hơn thế rất nhiều. “Che” không hề là một người cách mạng ngẫu hứng, ông sở hữu một nền tảng tri thức văn hóa rộng lớn, đọc sách và trau dồi kiến thức không biết mệt, từng có đúc kết “Chỉ có tri thức mới thực sự giải phóng con người” rất gần với tư tưởng của José Martí (1843-1895, nhà tương tưởng và đấu tranh giải phóng vĩ đại của Cuba và Mỹ Latinh, từng để lại câu danh ngôn “làm người có học để làm người tự do”).
Ông từng nghiên cứu sâu chủ nghĩa Mác-xít Lê-nin-nít, và với một ý chí chính trị sắt đá, ông luôn mạnh dạn đưa những tri thức mới vào việc vận dụng liên tục học thuyết này. Điều này được minh chứng qua những phân tích về nền kinh tế tư bản và của Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa Đông Âu, nơi ông đã đưa ra những phê bình và dự báo về những nguy cơ từ rất lâu trước khi khối này sụp đổ.
“Che” cũng luôn ủng hộ việc mở rộng chiến tranh du kích ra các dân tộc nhỏ bé bị áp bức khác trên thế giới với niềm tinrằng, trong thực tiến thế giới vào thời điểm đó, những con đường hòa bình để giải phóng các dân tộc đã cạn kiệt và chỉ có kháng chiến vũ trang tại châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh mới có thể đánh bại các thế lực đế quốc phản động. Đó chính là ý tưởng nền tảng của khẩu hiệu nổi tiếng mà ông đã đưa ra: “Tạo ra 2, 3 … và nhiều Việt Nam” được biết tới trên thế giới dưới tên gọi “Thông điệp tới Hội nghị 3 châu lục” (1967). Khẳng định quan điểm quốc tế chủ nghĩa mà ông tin tưởng sâu sắc đó, đầu năm 1965, “Che” thông báo với Fidel rằng mình sẽ khởi hành tới những “trận địa mới”, bắt đầu bằng Congo – nơi tổng thống Patrice Lumumba bị CIA ám sát năm 1961 – để gia nhập nhóm quân tình nguyên Cuba đang chiến đấu tại đây.
Tháng 11/1966, sau trải nghiệm không thành công tại Congo, “Che” tới Bolivia – khi đó dưới chế độ quân sự của tổng thống René Barrientos, một động minh thân cận của CIA. Với sự trợ giúp của Fidel từ Cuba, ông đã tổ chức, huấn luyện và chỉ huy một đội quân du kích với mục đích lan tỏa mô hình chiến đấu này tại Bolivia và sau đó là tại cả Nam Mỹ. Sau 11 tháng ròng rã sống và chiến đấu trong những điều kiện gian khó nhất, ngày 8/10/1967, ông bị thương và sau đó bị bắt, và 1 ngày sau  ông bị sát hại theo lệnh của CIA.
Trong lời nói đầu của “Nhật ký Che tại Bolivia” (1968), cố lãnh tụ Fidel Castro đã tái hiện lại những thời khắc cuối cùng của “Người du kích anh hùng”: “Có thể xác định rằng “Che” đã chiến đấu trong tình trạng bị thương cho tới khi khẩu súng M-2 của ông bị một viên đạn của quân địch phá hỏng hoàn toàn, còn khẩu súng lục của ông lại bị kẹt đạn. Chính những tình huống không thể tin nổi này giải thích vì sao kẻ thù có thể bắt sống ông…
Những giờ phút cuối cùng dưới tay của những kẻ thù đáng khinh hẳn là rất đắng cay với ông. Nhưng không một ai lại được chuẩn bị tốt hơn “Che” để đối diện thử thách khắc nghiệt đó…”, một con người luôn hành động nhất quán với những gì mình đã vạch ra và từng viết trong “Thông điệp tới Hội nghị 3 châu lục” chỉ ít lâu trước khi ông hi sinh: “Ở bất cứ nơi đâu mà cái chết bất ngờ ập đến với ta, nó đều được chào đón, khi mà tiếng thét xung trận của chúng ta tới được một đôi tai nghe và khiến một cánh tay vươn ra để tiếp lấy vũ khí của chúng ta để những con người khác lại tiếp tục khúc ca bi tráng của súng trường, của những tiếng thét xung trận và hô mừng chiến thắng mới”.
Kẻ thù đã tin rằng sát hại được “Che” là giáng một đòn chí tử vào phong trào cách mạng Mỹ Latinh và Thế giới thứ ba, nhưng thêm một lần chúng lại nhầm lẫn. “Người du kích anh hùng” đã không chết tại La Higuera, mà chính tại nơi đây, ông đã trở nên một chiến sĩ quốc tế bất tử.
Theo LÊ HÀ / TTXVN