Đã 65 năm trôi qua, chiến thắng trong trận quyết chiến chiến lược tại
Điện Biên Phủ (ngày 07/5/1954) là thắng lợi quyết định, kết thúc vẻ vang cuộc
kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp của quân và dân ta.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ,
một thắng lợi “lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu”, là một sự kiện mang tầm
vóc vĩ đại và bài học lịch sử rất quan trọng trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp.
Đánh giá về ý nghĩa và tầm vóc của
chiến thắng Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát: Điện Biên Phủ là
cột mốc bằng vàng trong lịch sử dân tộc, đánh dấu nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống
dốc và tan rã, khởi đầu quá trình phi thực dân hóa trên phạm vi toàn thế giới.
Chiến thắng vẻ vang của dân tộc
Việt Nam đã đi vào lịch sử thế giới như một bản hùng ca, song những giá trị của
thắng lợi trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc luôn còn đọng mãi với lịch
sử của dân tộc Việt Nam ta qua các thế hệ.
Có được những thắng lợi đó trước
hết là sự kế thừa truyền thống chống giặc ngoại xâm của cha ông ta và sự vận dụng
sáng tạo về lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh -
nhà quân sự thiên tài.
Thực hiện đường lối kháng chiến
toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, với vũ khí thô sơ và
tinh thần “cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh”, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại
các chiến lược quân sự của thực dân Pháp. Quân ta càng đánh, càng mạnh, càng thắng,
quân viễn chinh Pháp càng ngày càng lún sâu vào thế bị động, lúng túng.
Vùng giải phóng của ta được mở rộng,
chính quyền dân chủ nhân dân được củng cố. Đến năm 1953, nhân dân và quân đội
ta đã làm chủ trên chiến trường, tạo ra sự so sánh lực lượng có lợi cho ta.
Ngày 25-1-1954, các đơn vị bộ đội
ta ở vị trí tập kết sẵn sàng nổ súng theo phương châm tác chiến “đánh nhanh, giải
quyết nhanh”.
Nhưng nhận thấy địch đã tăng cường
lực lượng phòng ngự vững chắc, Bộ Chỉ huy và Đảng ủy chiến dịch đã đưa ra quyết
định đúng đắn: Giữ vững quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ,
thay đổi phương châm tác chiến sang “đánh chắc, tiến chắc”.
Đây là quyết định đúng đắn nhưng
ta cũng gặp không ít khó khăn. Đó là, thời gian tác chiến dài hơn, cách đánh
cũng khác nên có những việc ta phải chuẩn bị lại từ đầu, nhất là việc tổ chức,
bố trí hệ thống hoả lực chiến dịch.
Với địa hình hiểm trở, pháo của
ta kéo vào tập trung tại trận địa đã khó khăn, nay thay đổi phương châm tác chiến
lại phải kéo pháo phân tán ra các trận địa mới trên các điểm cao tạo thành vòng
cung bao vây tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, để bắn trực tiếp vào các mục tiêu
dưới lòng chảo càng khó khăn hơn. Với tinh thần quả cảm, không quản ngại gian
khổ, hy sinh, quân và dân ta đã tìm mọi cách vượt qua thử thách hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ.
Cuộc tiến công chiến lược Đông
Xuân 1953-1954 với đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ là một trận quyết chiến
chiến lược, sau 56 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo quân và dân
ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống
16.200 tên, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 ôtô và toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân
trang quân dụng của địch; một trận tiêu diệt điển hình nhất, trực tiếp đưa đến
việc buộc thực dân Pháp xâm lược phải ngồi vào bàn hội nghị ký Hiệp định Genève
về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Đông Dương.
Tầm vóc và giá trị lịch sử của
chiến thắng Điện Biên Phủn được thể hiện nổi bật ở mấy bài học quí sau:
Trước hết, về sự chỉ đạo
chiến lược đúng đắn, sáng tạo, kiên quyết và tài giỏi của Đảng, của Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Nắm vững âm mưu, kế hoạch chiến lược của địch, Trung ương Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh kịp thời đề ra phương châm kháng chiến: “Tích cực, chủ động,
cơ động, linh hoạt” nhằm phá khối chủ lực, cơ động chiến lược của địch ngay từ
trong trứng nước.
Theo đó, quân và dân ta trên khắp
các địa bàn, nhất là ở đồng bằng Bắc Bộ, chủ động đẩy mạnh các hoạt động tác
chiến làm cho địch không những không thể thực hiện được kế hoạch đã vạch ra, mà
còn lâm vào thế bị động đối phó.
Trước nguy cơ lực lượng cơ động
chiến lược trên chiến trường Đông Dương bị xé lẻ, phân tán, Na-va vội điều lực
lượng lớn lên Điện Biên Phủ xây dựng tập đoàn cứ điểm, được mệnh danh là “bất
khả chiến bại” hòng lôi kéo, “nghiền nát” lực lượng chủ lực của ta.
Trung ương Đảng và Bác Hồ nhận định:
Đây tuy là mưu đồ của địch, nhưng cũng là thời cơ cho ta tập trung binh lực, hỏa
lực để tiêu diệt quân địch, kết thúc chiến tranh. Tác chiến trên địa bàn này,
ta tuy có những khó khăn nhất định, nhưng có thuận lợi cơ bản, đó là: Phát huy
được sở trường đánh địch ở địa hình rừng núi, địa bàn chiến dịch tiếp giáp vùng
mới giải phóng.
Đối với địch, có bất lợi: Chưa kịp
xây dựng, củng cố vững chắc công sự, trận địa, lại xa hậu phương, chỉ có thể tiếp
tế bằng đường không; địa thế của “lòng chảo Điện Biên” lại thấp. Trong quá
trình chuẩn bị, Bộ Tư lệnh Chiến dịch nhận thấy địch đã củng cố, xây dựng nơi
đây thành tập đoàn cứ điểm mạnh nên ta không thể “đánh nhanh, giải quyết
nhanh”.
Vì thế, Tư lệnh Chiến dịch đã kịp
thời chuyển phương châm tác chiến sang “đánh chắc, tiến chắc”.
Chủ trương trên được Bộ Chính trị
nhất trí, nhưng cũng là một quyết định rất khó khăn về mặt tư tưởng đối với bộ
đội, nhất là trong điều kiện lực lượng ta đã áp sát mục tiêu tiến công lại phải
dừng lại để rút ra chuẩn bị kỹ hơn về: Vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm,
thuốc men và cách đánh.
Xuất phát từ ý nghĩa, tầm quan trọng
của trận quyết chiến chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn đồng chí Võ
Nguyên Giáp trước khi lên đường đi Chiến dịch: “Trận này rất quan trọng, phải
đánh cho thắng. Đánh chắc thắng, không chắc thắng không đánh” (Đại tướng Võ
Nguyên Giáp - Tổng tập Hồi ký, Nxb QĐND, H. 2006, tr. 900.).
Cuộc đấu trí, đấu lực cả trước và
trong Chiến dịch với phần thắng thuộc về quân và dân ta đã chứng minh sự lãnh đạo
tài tình, sáng suốt của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây chính là nhân tố
quyết định tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả nước đánh thắng đội quân xâm lược
nhà nghề của thực dân Pháp và buộc chúng phải ký Hiệp định Genève, lập lại hòa
bình ở Việt Nam và Đông Dương.
Hai là, Phát huy cao nhất
sức mạnh của toàn dân cho trận quyết chiến chiến lược. Tính cả trước và trong
Chiến dịch, có tới 62.000 dân công, thanh niên xung phong tham gia làm và sửa
chữa hàng trăm kilômét đường, nhiều bến, cầu; vận chuyển hơn 25.000 tấn lương
thực, thực phẩm, hàng nghìn tấn vũ khí trang bị, đạn dược tới mặt trận; hàng
nghìn cán bộ, chiến sĩ được cứu chữa, chăm sóc… trở thành nhân tố quan trọng đảm
bảo thắng lợi.
Ngoài nhiệm vụ phục vụ, họ còn trực
tiếp tham gia chiến đấu cùng các đơn vị quân đội. Đây là “cuộc ra quân lớn nhất”
của cả nước kể từ đầu cuộc kháng chiến. Thực tiễn đã khẳng định: đường lối
kháng chiến toàn dân, toàn diện, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc của Đảng và sức
mạnh to lớn của nhân dân là nhân tố quan trọng góp phần vào thắng lợi của chiến
dịch.
Ba là, Sự ủng hộ, giúp đỡ
của quốc tế. Sau gần 5 năm bị cô lập, chiến đấu trong vòng vây, cuộc kháng chiến
của nhân dân ta gặp không ít khó khăn về vật chất, vũ khí, súng đạn, thậm chí cả
về đấu pháp với một đội quân nhà nghề được trang bị vũ khí hiện đại...
Để khắc phục tình trạng trên, Đảng
ta kiên trì đường lối kháng chiến: Toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh, dựa
vào sức mình là chính; đồng thời, tích cực, chủ động tìm sự ủng hộ về vật chất
và tinh thần từ bên ngoài, nhất là từ các nước XHCN và các lực lượng tiến bộ
trên thế giới.
Bên cạnh đó, Đảng còn định ra chủ
trương, chính sách đúng đắn để phát triển lực lượng vũ trang, chuẩn bị vật chất
hậu cần, kỹ thuật cho trận đánh lớn, kết thúc chiến tranh.
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta
nhận được sự giúp đỡ về tinh thần và vật chất ngày càng lớn của bạn bè quốc tế,
nổi bật là sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân Liên Xô, Trung Quốc (Chiến tranh
cách mạng Việt Nam 1945 - 1975 thắng lợi và bài học, Nxb CTQG, H. 2000, tr.
600: Vũ khí, đạn dược, vật chất hậu cần, kỹ thuật là 21.517 tấn; 24 khẩu sơn
pháo 75mm, 24 khẩu lựu pháo 105mm, 76 khẩu pháo cao xạ 37mm và 12 khẩu pháo hỏa
tiễn H6 và 715 xe. Chỉ tính riêng trong hai năm 1953, 1954, số lượng hàng hóa
viện trợ đạt 9.292 tấn.).
Ngoài ra, các nước bạn còn giúp
ta trong đào tạo cán bộ, huấn luyện chuyển loại các đơn vị pháo binh, pháo cao
xạ....
Chiến thắng Điện Biên Phủ mang tầm
vóc thời đại, góp phần to lớn vào phong trào đấu tranh vì hoà bình, tiến bộ của
nhân loại. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ giáng một đòn chí mạng vào nền
móng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, đánh sập thành luỹ của chủ nghĩa thực
dân cũ, báo hiệu sự thất bại chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa
thực dân mới do đế quốc Mỹ cầm đầu.
Sau hơn 30 năm đổi mới, thế và lực
của đất nước ta đã lớn mạnh, nhưng bên cạnh những thuận lợi cơ bản, cơ hội và
thách thức vẫn đan xen, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chống phá Đảng,
Nhà nước và sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta.
Tình hình đó đòi hỏi toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân phải mài sắc tinh thần cảnh giác, phát huy cao độ nội lực;
phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng;
giữ vững và không ngừng tăng cường đoàn kết quân dân, đoàn kết hữu nghị với
nhân dân và quân đội các nước bạn truyền thống; tăng cường củng quốc phòng, giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác giáo dục quốc phòng, an ninh, xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh,
thành phố, kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế và đối ngoại.
Chú trọng xây dựng các khu kinh tế
- quốc phòng trên các địa bàn chiến lược, tuyến biên giới, nâng cao đời sống
nhân dân, xoá đói giảm nghèo, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Tổ chức lực
lượng vũ trang hợp lý, đồng bộ, cân đối giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương
và dân quân tự vệ, các quân binh chủng phù hợp với yêu cầu tác chiến mới.
Xây dựng Quân đội nhân dân, Công
an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có bản lĩnh
chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân đủ
sức hoàn thành mọi nhiệm vụ trong tình hình mới.
Nguyễn Huy Hiệu