Tính từ
khi quân Pol Pot gây hấn biên giới Việt Nam cho đến ngày sự thật được phơi bày
khi những kẻ cầm đầu Khmer đỏ bị xét xử là hơn 30 năm (1975 - 2006).
Quân đội Việt Nam rút khỏi Campuchia |
Sau sự
kiện 30/4/1975, quân Pol Pot đã tiến hành xâm lấn biên giới Việt Nam mà đầu
tiên là đảo Phú Quốc (04/5/1975) rồi tới đảo Thổ Chu, giết chết 500 thường dân.
Chúng gây ra hàng loạt cuộc thảm sát nhân dân biên giới Việt - Cam.
Tháng
4/1977, quân Pol Pot tiến sâu 10 km vào lãnh thổ Việt Nam, chiếm một số vùng ở
tỉnh An Giang và tàn sát một số lớn dân thường.
Tới ngày
25/9, 4 sư đoàn quân Pol Pot đánh chiếm nhiều điểm ở các huyện Tân Biên, Bến Cầu,
Châu Thành (tỉnh Tây Ninh), đốt phá 471 ngôi nhà, làm gần 800 người dân bị giết,
bị thương hoặc mất tích.
Tính từ
tháng 5/1975 đến ngày 23/12/1978, Pol Pot đã giết hại hơn 5.000 dân thường Việt
Nam, làm bị thương gần 5.000 người, bắt và đưa đi thủ tiêu hơn 20.000 người. Chủ
trương của quân Pol Pot là “chỉ cần mỗi
ngày diệt vài chục, mỗi tháng diệt vài ngàn, mỗi năm diệt vài ba vạn thì có thể
đánh 10, 15, đến 20 năm. Thực hiện 1 diệt 30, hy sinh 2 triệu người Campuchia để
tiêu diệt 50 triệu người Việt Nam”.
Ngày
31/12/1977 Việt Nam đưa vào Campuchia 6 sư đoàn bộ binh đánh sâu vào đất
Campuchia giải thoát cho một số cán bộ quan trọng của Campuchia trong đó có Thủ
tướng tương lai Hun Sen. Cuộc tấn công này được xem là lời “cảnh cáo” cho chính
quyền Khmer Đỏ.
Việt
Nam đề nghị đàm phán nhằm thiết lập một vùng phi quân sự dọc biên giới, nhưng
Pol Pot nhiều lần từ chối, và giao tranh lại tiếp diễn. Từ tháng 12/1977 đến tháng
6/1978, hơn 30 vạn thường dân Việt Nam phải di tản vào sâu trong nội địa.
Ngày
13/12/1978, được sự trang bị và hậu thuẫn của Trung Quốc, chính quyền Khmer Đỏ
đã huy động 19 trong 23 sư đoàn (khoảng 80.000 đến 100.000 quân) tiến công xâm
lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới. Trước tình hình đó Việt Nam bắt đầu
đánh trả với lực lượng được chỉ huy bởi tướng Lê Trọng Tấn:
+ Bộ binh: Quân đoàn 2 (Sư 304,
325), Quân đoàn 3 (Sư 10, 31, 320, 302), Quân đoàn 4 (Sư 7, 9, 341, 2 - Lữ đoàn
22 thiết giáp, Lữ đoàn 24 pháo binh, Lữ đoàn 25 công binh), Quân khu 5 (Sư 307,
309 - Lữ đoàn đặc công 198), Quân khu 7 (Sư 5, 302, 303, Trung đoàn đặc công
117, Trung đoàn 262 pháo binh, Trung đoàn 26 thiết giáp, Trung đoàn công binh
E25 QK7), Quân khu 9 (Sư đoàn 4, 330, 339);
+ Hải quân: Lữ đoàn hải quân
đánh bộ 126 và Lữ đoàn hải quân đánh bộ 101;
+ Không quân: Đoàn 901 không
quân (Sư đoàn không quân 372, Trung đoàn 921) + Và hơn một vạn quân thuộc Mặt
trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước Campuchia (UFNSK) (là Chính phủ kháng chiến được
thành lập bởi Hun Sen).
Từ
tháng 6/1977 đến tháng 12/1978, quân tình nguyện Việt Nam đã tiêu diệt 38.563
quân Khmer đỏ, bắt sống 5.800 lính khác. Kết thúc cuộc chiến, quân tình nguyện
Việt Nam tiêu diệt hơn 10 vạn quân Pol Pot.
Đến ngày
07/01/1979, Phnom Penh được giải phóng nhưng 10 năm sau, cuộc chiến tranh mới kết
thúc, hơn 3 triệu dân Campuchia chết dưới nạn diệt chủng của Pol Pot. Cuộc chiến
kết thúc với thiệt hại của Việt Nam là khoảng 50 - 55 ngàn quân nhân hi sinh hoặc
mất tích và 200 ngàn người bị thương, hơn 55 ngàn dân thường chết hoặc bị
thương (riêng tỉnh Bình Định đã có gần 10 ngàn liệt sĩ).
Cái nhìn của quốc tế và khó khăn của Việt
Nam
Các đợt
tấn công của quân Pol Pot mang tính chất xâm lược lãnh thổ Việt Nam.
- Cuộc
chiến biên giới Tây Nam là cuộc chiến tranh tự vệ chính đáng theo điều 51 Hiến
chương Liên Hợp Quốc. Đây là cuộc chiến nhân đạo giúp Campuchia thoát khỏi nạn
diệt chủng và giúp họ xây dựng chính quyền Campuchia mới.
Quan điểm của quốc tế: Ngoài
Liên Xô ra thì cả khối XHCN và khối TBCN đều ủng hộ chính quyền Khmer đỏ và cho
rằng Việt Nam đang tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Campuchia.
Phương
Tây và Trung Quốc đều viện trợ nhân đạo cho chính quyền Khmer đỏ mà trong đó
chính Trung Quốc là nước viện trợ tích cực nhất cho chính quyền Khmer đỏ (nếu
không muốn nói chính Trung Quốc đã hậu thuẫn cho chính quyền Khmer đỏ tấn công
Việt Nam).
Phương
Tây mà đứng đầu là Mỹ đã tuyên truyền: Việt Nam đang “thuộc địa hóa” Campuchia theo thuyết “chủ nghĩa bành trướng của cộng sản” mà họ nêu lên vài thập kỉ trước.
Họ gọi Việt Nam là Đế chế Cộng sản ở Đông
Dương, rằng Hà Nội muốn thành lập một Liên bang Đông Dương và lãnh đạo 3 nước
Đông Dương.
Trong
khi đó, chính phủ Lào vẫn giữ tính trung lập (sau này trong cuốn Red
Brotherhood at war - Chân lý thuộc về ai, tác giả có nói đó là “sự lu mờ của chủ
nghĩa cộng sản trung lập” để chỉ Chính phủ Lào).
Chính
phủ Thái Lan thì không công nhận cuộc chiến của Việt Nam, đến năm 1982 thì bắt
đầu xung đột với quân tình nguyện Việt Nam ở biên giới Thái-Cam, để Khmer đỏ
đóng quân ở đấy và nhận viện trợ từ Phương Tây và Trung Quốc, đến năm 1988 thì
chấm dứt.
Hồi ký
của Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam - Trần Quang Cơ có đoạn: ngoài Trung Quốc và Singapore, tất cả các
thành viên trong cuộc họp ngày 16/8/1989 đều thừa nhận hành vi diệt chủng của
Khmer Đỏ.
Và theo
cựu ngoại trưởng Singapore Bilahari Kausikan thì lúc đó Mỹ cảnh báo Singapore rằng
sẽ có “máu đổ trên sàn nhà” nếu
Singapore không chịu ủng hộ Khmer Đỏ, nói cách khác Singapore bị Mỹ ép phải ủng
hộ Khmer Đỏ để bảo vệ lợi ích tối cao của Mỹ.
Khó khăn của Việt Nam.
Về kinh
tế:
Cùng với việc hậu thuẫn cho chính quyền Khmer đỏ xâm lược Việt Nam, từ năm 1976
Trung Quốc đã ngừng gói viện trợ không hoàn lại 500.000 tấn gạo hàng năm và cắt
việc cung cấp hàng tiêu dùng. Khó khăn càng nhiều khi các nước khác viện trợ nhỏ
giọt và tiếp đó là lũ lụt năm 1978 - trận lụt lớn nhất trong 60 năm làm cho
kinh tế Việt Nam kiệt quệ.
Phương
Tây sau đó chỉ còn Pháp viện trợ số lượng ít, các nước tư bản khác vẫn chờ phản
ứng của Mỹ (mà Mỹ lại siết chặt cấm vận).
Khó
khăn đã khiến khẩu phần ăn trong nước bị giảm xuống 1kg gạo/tháng, kể cả quân
tình nguyện trên đất Campuchia cũng bị cắt giảm như vậy. Mặc dù vậy, năm 1979
Việt Nam vẫn viện trợ cho Cộng hòa Nhân dân Campuchia 120.000 tấn lương thực.
Về
chính trị - quân sự: Trung Quốc bắt đầu gây hấn ở Biển Đông và
các tỉnh phía Bắc Việt Nam mà đỉnh điểm là cuộc xâm lược toàn tuyến biên giới 6
tỉnh phía Bắc Việt Nam năm 1979 và sau đó là “Sự kiện Gạc Ma” năm 1988.
Tháng
4/1981 Việt Nam đã thể hiện việc sẵn sàng rút tất cả quân tình nguyện khỏi
Campuchia nếu Trung Quốc ký một hiệp ước không xâm lược Việt Nam, Lào và Cộng
hoà nhân dân Campuchia. Nhưng Trung Quốc kiên quyết không chấp nhận đề nghị
trên.
Chiến
tranh kết thúc: Tính đến năm 1986 thì lực lượng Khmer đỏ
hầu như tan rã nhưng Việt Nam vẫn duy trì hàng rào quân sự tại biên giới
Lào-Campuchia với 150 ngàn quân. Tới tháng 9/1989 thì rút hoàn toàn về nước.
Năm 1992 - 1993 thì lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc tại Campuchia tạm
thời quản lý đất nước này.
Tháng
12/1999, Ta Mok và các thủ lĩnh còn lại đầu hàng, Khmer Đỏ trên thực tế chấm dứt
sự tồn tại.
Năm
2006 phiên tòa xét xử tội ác Khmer đỏ được thành lập, ngày 26/7/2011 phiên tòa
xét xử phiên đầu tiên. Cuộc chiến 10 năm của Việt Nam có kết quả.
Và trên
hết, thế giới đã nợ Việt Nam một lời xin lỗi.