Trong
thời gian gần đây, trên các trang mạng xã hội xuất hiện một số ý kiến cho rằng
Việt Nam cần phải bỏ Tết Nguyên đán (còn gọi là Tết Âm lịch), chỉ nên đón Tết
Dương lịch như các nước trên thế giới.
Những người này cho rằng duy trì Tết
Nguyên đán như lâu nay dẫn đến sự tốn kém về kinh tế xã hội, từ nhà nước đến
người dân, trung bình mỗi người dân đã tiêu tốn cho việc mua sắm Tết Nguyên đán
từ vài triệu, cho đến hàng chục triệu đồng. Sự tốn kém còn kéo dài sau Tết,
nhất là việc tham gia các lễ hội văn hóa dân gian. Các doanh nghiệp ở nước
ngoài làm việc trong dịp Tết, còn người Việt Nam thì lo nghỉ Tết, do vậy bỏ lỡ
nhiều cơ hội kinh doanh. Một số khác cho rằng Tết Nguyên đán là sản phẩm của
văn hóa Trung Quốc, không phải văn hóa truyền thống của người Việt Nam.
Tuy nhiên,
những người có tư tưởng như đã nêu ở trên có thể đã quên, không tính toán kỹ
hoặc chưa biết những vấn đề sau đây:
Về kinh tế, Tết Nguyên đán là cơ hội làm
ăn của các nhà cung cấp hàng hóa và dịch vụ, đặc biệt là cung cấp những hàng
hóa, dịch vụ truyền thống. Sự phát triển của các ngành cung cấp hàng hóa và
dịch vụ này cho thu nhập lên đến hàng ngàn tỷ đồng trong mỗi dịp Tết đến xuân
về, đóng góp rất lớn vào sự phát triển nền kinh tế của đất nước. Mặt khác, Tết
Nguyên đán cùng với các lễ hội văn hóa dân gian được tổ chức trong dịp trước,
trong và sau Tết Nguyên đán đem lại nguồn thu to lớn cho ngành du lịch Việt
Nam, thu hút một lượng lớn khách du lịch nước ngoài từ khắp nơi trên thế giới
đến tham quan, du lịch, khám phá vẻ đẹp về thiên nhiên, con người, ẩm thực, nền
văn hóa đặc sắc, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam mà phần lớn các nước trên thế
giới không có được. Đối với nhà nước và các doanh nghiệp Việt Nam, Tết Nguyên
đán là dịp rất thuận lợi trong việc giao lưu với nước ngoài, để đi đến những
thỏa thuận về ngoại giao, kinh tế và cả về chính trị, hoặc để ký kết các hợp
đồng kinh doanh.
Về văn hóa, từ “Tết” là một từ thuần Việt.
Người Trung Quốc gọi là “Tiết” (phiên âm Hán Việt). Lịch sử đã chứng minh rằng
Tết Nguyên đán là sản phẩm văn hóa, phong tục tập quán có từ lâu đời của người
Việt, có nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp, nhất là nền nông nghiệp trồng
lúa nước, dựa vào “lịch mặt trăng”, thời tiết các mùa trong một năm để tính
toán cho vụ mùa đạt kết quả cao. Tết Nguyên đán bắt nguồn từ các bộ lạc Việt ở
phía nam sông Trường Giang với nghề trồng lúa nước lâu đời.
Còn ở Trung Nguyên (tức Cao nguyên Hoàng
thổ), nơi khởi phát nền văn minh Trung Hoa, người dân xây dựng nền kinh tế của
mình chủ yếu bằng nghề trồng lúa mì và chăn nuôi du mục, nên việc canh tác,
nuôi trồng những sản vật cũng tuân theo một chu trình thời tiết nông vụ hoàn
toàn khác so với những cư dân vùng lúa nước.
Trong quá trình xâm lược và mở rộng lãnh
thổ xuống phía nam, các triều đại phong kiến Trung Quốc đã lần lượt thôn tính
các bộ lạc Việt. Một số bộ lạc đã bị Hán hóa như Điền Việt (vùng Vân Nam, Quý
Châu), Mân Việt (vùng Phúc Kiến), Đông Việt (vùng Giang Tây), Dương Việt (vùng Giang
Tô), Ư Việt (vùng Chiết Giang), Sơn Việt (vùng Quảng Đông)… Chỉ có Âu Việt và
Lạc Việt còn tồn tại, mở rộng bờ cõi và phát triển xuống phía nam, hình thành
nên nước Việt Nam ta như hiện nay.
Có thể dễ dàng nhận thấy rằng, Tết Nguyên
đán của người Việt mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống, thuần Việt và được
lưu giữ đến ngày hôm nay. Các thủ tục nghi thức tế lễ, đến các sản vật, các trò
chơi… đều có trong các lễ hội trước, trong và sau Tết Nguyên đán, gắn với nền
văn hóa nông nghiệp lúa nước. “Lễ hội cày tịch điền” là sự đánh dấu khởi đầu
của một vụ mùa tươi tốt trong năm. Các sản vật như bánh chưng, bánh dày, bánh
tét, bánh in... được làm với gạo nếp, đậu xanh thường được dùng trong dịp Tết
Nguyên đán cũng chính là những sản vật của nền nông nghiệp lúa nước. Người Việt
còn có lễ cúng Ông Táo và thả cá chép về chầu trời trong ngày 23 tháng chạp âm
lịch, mâm ngũ quả được bày trang trọng trên bàn thờ tổ tiên; các lễ hội như
chọi trâu (ở Đồ Sơn, Hải Phòng), rước giò hoa tre (Sóc Sơn, Hà Nội), cày ruộng
tịch điền (Đọi Sơn, Hà Nam)… tất cả đều gắn với nền văn hóa nông nghiệp lúa
nước, đậm đà bản sắc văn hóa của người Việt Nam ta mà không một quốc gia nào
khác trên thế giới có được.
Trong quá trình giao lưu văn hóa trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam, nhiều phong tục tập quán của đồng bào các dân
tộc thiểu số được tích hợp vào những tục lệ chung trong dịp Tết Nguyên đán hoặc
được bảo lưu trong mỗi vùng miền. Trong quá trình giao lưu văn hóa giữa Việt
Nam với nước ngoài, một số phong tục liên quan đến Tết Nguyên đán của một số
nước đông á cũng được du nhập và tích hợp vào tục lệ Việt Nam, nhưng không bao
giờ là sự sao chép nguyên vẹn, mà được biến đổi, điều chỉnh cho phù hợp với
phong tục tập quán người Việt. Dù có phong phú, đa dạng đến đâu thì Tết Việt
vẫn luôn gắn liền với nghề nghiệp của thủy tổ cư dân người Việt là nghề trồng
lúa nước.
Vì vậy, việc cho rằng Tết Nguyên đán có
nguồn gốc từ Trung Quốc là hoàn toàn không có logic và không có biện chứng lịch
sử.
Không phải tất cả mọi người dân Việt Nam
ai cũng đều được nghỉ Tết, mà ngược lại, tất cả các cơ quan nhà nước đều cử cán
bộ, công nhân viên trực trong dịp Tết; các ngành như quân đội, công an nghỉ Tết
rất hạn chế, tăng cường làm việc nhằm bảo vệ an ninh, quốc phòng; các doanh
nghiệp thiết yếu như ngành điện, ngành vệ sinh môi trường vẫn hoạt động bình
thường… để nhân dân đón cái Tết vui tươi, bình an.
Tết Nguyên đán là dịp để mỗi người Việt
Nam từ trong và ngoài nước sum họp, hướng về tổ tiên, quê hương đất nước, thể
hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn tốt đẹp của dân tộc.
Trong thời kỳ hội nhập, chúng ta nên hòa
nhập chứ không hòa tan, phải luôn giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp
của dân tộc. Do vậy, cần nhìn nhận vấn đề một cách tổng thể, đa chiều về góc độ
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, không nên nhìn một cách phiến diện, thiển
cận để rồi hô hào đòi bỏ Tết Nguyên đán là điều bất hợp lý, biểu hiện của sự
mất gốc, lai căng văn hóa phương Tây, chối bỏ văn hóa truyền thống tốt đẹp có
từ lâu đời của dân tộc Việt Nam.
Viết Thanh