Chắc hẳn trong mỗi chúng ta đều đã một lần được nghe, được đọc, được suy ngẫm và rưng rưng xúc động về bài thơ “Người đi tìm hình của Nuớc” của nhà thơ Chế Lan Viên. Có thể nói, mỗi vần thơ cất lên như chứa đựng bao nỗi niềm của tình cảm, sự tự hào, hãnh diện, kính trọng và biết ơn công lao trời bể của nhà thơ nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh trong hành trình suốt cuộc đời phấn đấu vì một lý tưởng cao đẹp, từ ngày ra đi tìm đường cứu nước (5/6/1911) trở thành nhà hoạt động cách mạng kiên cường và bền bỉ cho đến hơi thở cuối cùng (2/9/1969) đưa đất nước và dân tộc đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi
Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác
Khi bờ bãi dần lui làng xóm khuất
Bốn phía nhìn không một bóng hàng tre
Mỗi lần đọc những dòng thơ trên, trước mắt ta như thấy giây phút thiêng liêng: Đó là hình ảnh của một chàng trai yêu nước tên Ba, tuổi mười tám đôi mươi đã quyết tâm ra đi tìm con đường cứu nước vào ngày 5-6-1911 trên con tàu Đô đốc La-tu-sơ Tơ-rê-vin tại bến cảng Sài Gòn (thành phố Hồ Chí Minh). Trong chuyến hành trình đầu tiên đó, Bác đã đến Sing-ga-po, Cô-lôm-bô, Po Xa-ít, rồi Đa-răng Mác-xây và ngày 15 tháng 7, Bác đến Lơ Ha-vrơ, cảng chính của miền Bắc nước Pháp.
Với niềm xúc động chân thành, nhà thơ Chế Lan Viên đã cảm nhận sâu sắc nỗi lòng của Người trong những ngày tháng lênh đênh trên đại dương bao la, xa lạ. Bác đã quyết chí ra đi tìm ánh sáng cho dân tộc giữa mùa bão tố tháng sáu với một trái tim vĩ đại mang trọn tình yêu quê hương đất nước. Từ buổi trưa đó, Bác bước vào cuộc đời của một người lao động cực khổ để ra đi và để rồi:
Đêm xa Nước đầu tiên, ai nỡ ngủ
Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương
Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở
Xa Nước rồi, càng hiểu Nước đau thương
Vần thơ thật sâu lắng, giàu cảm xúc như hồi tưởng lại tâm sự của Bác Hồ trong “đêm xa Nước đầu tiên”, tưởng chừng như có thể thấy mỗi đau mất nước ngày đêm giày vò Người; hình ảnh của Người trằn trọc không ngủ trong những đêm dài lênh đênh nơi xứ lạ. Người ra đi thầm lặng, đơn độc trên con tàu vượt đại dương nhưng trong lòng vẫn luôn khắc khoải, canh cánh, day dứt một nỗi niềm mang tên “tình đất nước”, “vận mệnh dân tộc”. Xúc cảm của người xa xứ pha lẫn nỗi đau thương da diết vì mất Nước thật nghẹn ngào khi đồng bào còn chìm đắm trong bùn đen nô lệ, cam chịu sự thống trị của thực dân, đế quốc. Tàu càng đi xa, tiếng sóng càng trở nên xa lạ, nỗi đau như tăng dần lên “xa Nước rồi, càng hiểu Nước đau thương”.
Từ ngày 5 tháng 6 năm 1911 ấy, Người đã trải qua bao gian nan, cực khổ của các nghề “bồi” ở dưới tàu, “bồi” ở khách sạn, làm nghề rửa ảnh, vẽ sơn mài, làm nghề cào tuyết cho một trường học để sống, để đi, để hiểu và hoạt động cách mạng. Trong chuyến hành trình tìm đường cứu nước, Người đã đi khắp thế giới với nhiều khó khăn, vất vả, hiểm nguy nhưng ý chí, quyết tâm và lòng tin của Người về con đường giải phóng dân tộc luôn trước sau như một, chưa một phút giây thôi nghĩ về vận mệnh của đất nước, đời sống của đồng bào. Ý thơ đã cho ta thấy được tình yêu Tổ quốc luôn luôn cháy bỏng đến thiết tha trong tâm trí của Người:
Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bể
Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu Phi
Những đất tự do, những trời nô lệ
Những con đường cách mạng đang tìm đi
Đêm mơ Nước, ngày thấy hình của Nước
Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà
Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc
Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa
Sống giữa trời Âu phủ đầy tuyết trắng giá lạnh “một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá”, châu Mỹ, châu Phi xa xôi và nhiều lạ lẫm nhưng trong thẳm sâu tâm hồn Bác hình ảnh quê hương hiện lên với màu xanh của cỏ cây tươi tốt như màu xanh của hi vọng, mong ước về màu xanh của hòa bình dân tộc, sự yên bình, ấm no, tự do, hạnh phúc của đồng bào. Đọc câu thơ, ta bắt gặp một sự đối lập về hình ảnh, điều đó đã càng làm rõ hơn sự tinh tế đầy sâu lắng trong tâm hồn của Hồ Chủ tịch, đó là sự trăn trở, day dứt khôn nguôi đối với vận mệnh của đất nước. “Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc/Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa”. Trái tim giàu lòng yêu nước của Người như đang run lên, như đang nức nở, trong từng bữa ăn, giấc ngủ - Người cùng đau nỗi đau của dân tộc.
Xa Tổ quốc nhưng trái tim của Người luôn đập cùng nhịp đập trái tim của hàng triệu đồng bào. Đó là sức mạnh to lớn nhất giúp Người vượt qua mọi trùng dương, khó khăn để tiếp bước, tìm thấy ánh sáng chân lý soi rọi con đường đi đang đầy bùn đen tăm tối cho cả dân tộc. Khi đọc được Luận cương của Lê-nin, ngồi trong căn nhà số 9 ngõ Compoint, quận 17, ngoại ô Paris, Người đã bật khóc - khóc trong niềm hạnh phúc, khóc trong hi vọng về một ngày mai tươi sáng sẽ đến với dân tộc.
Luận cương đến với Bác Hồ. Và Người đã khóc
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin.
Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp
Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin
Niềm hạnh phúc như vỡ òa khi Người tiếp nhận Luận cương Lê-nin. Người tiếp nhận chân lý cách mạng ấy bằng tất cả trái tim, sự nhiệt huyết và khối óc của mình. Người tập trung lật giở từng trang sách và dường như cả đất trời cùng nín thở chờ đợi giây phút thiêng liêng, trọng đại này. Giây phút ló rạng ánh sáng của con đường giải phóng dân tộc, thời khắc lịch sử của một dân tộc đang trong cảnh lầm than, nô lệ hi vọng về ngày mai tươi sáng. Chân lý cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin đã soi sáng tâm hồn Người, đất trời và vạn vật xung quanh như bừng tỉnh, cùng hòa chung niềm hạnh phúc vô bờ:
Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc
“Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!”
Hình của Đảng lồng trong hình của Nước
Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười
Những câu thơ chứa đựng niềm hân hoan trào dâng đầy xúc động. Niềm vui náo nức của cả dân tộc trong giờ phút trọng đại hòa chung cùng tiếng reo mừng sung sướng của Người “Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!”. Con đường đi của cả dân tộc sẽ còn vô vàn những khó khăn, hi sinh, gian khổ nhưng hình ảnh của Đảng lồng trong hình đất nước đã khẳng định niềm tin vô cùng sâu sắc và mãnh liệt đối với Đảng quang vinh, đối với linh hồn của dân tộc. “Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười” - câu thơ giàu hình ảnh ấy đã làm người đọc xúc động xen lẫn vui mừng khi Người đã tìm ra con đường cứu nước, cứu dân. Và hơn cả là niềm hạnh phúc khi gặp những phác họa đầy tươi sáng về tương lai mới của đất nước:
Bác thấy:
Dân ta bưng bát cơm mồ hôi nước mắt
Ruộng theo trâu về lại với người cày
Mỏ thiếc, hầm than, rừng vàng, bể bạc
Không còn người bỏ xác bên đường ray
Giặc Nước đuổi xong rồi. Trời xanh thành tiếng hát
Điện theo trăng vào phòng ngủ công nhân
Những kẻ quê mùa đã thành trí thức
Tăm tối cần lao nay hóa những anh hùng
Nước Việt Nam nghìn năm Đinh Lý Trần Lê
Thành nước Việt nhân dân trong mát suối
Mái rạ nghìn năm hồng thay sắc ngói
Những đời thường cũng có bóng hoa che
Từ ngày 5 tháng 6 năm 1911, Bác rời xa Tổ quốc, quyết chí ra đi tìm đường cứu nước và Người đã tìm ra con đường giải phóng dân tộc. Sau bao năm bôn ba, nay Người trở về với quê hương, trở về với đồng bào. Mang trên vai sứ mệnh cao cả cùng với chân lý sáng ngời của chủ nghĩa Mác-Lênin, Người đã cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân quyết chí đồng lòng, trải qua nhiều chiến đấu, hi sinh, gian khổ đưa cả dân tộc thoát khỏi đêm dài nô lệ:
Luận cương của Lê-nin theo người về quê Việt
Biên giới còn xa. Nhưng Bác thấy đã đến rồi
Kìa, bóng Bác hôn lên hòn đất
Lắng nghe trong màu hồng, hình Đất nước phôi thai
Ngày Bác ra đi chỉ có hai bàn tay với chí lớn tìm ra con đường cứu nước. Mùa Xuân của 30 năm sau (tháng 2 năm 1941), vượt qua biết bao khó khăn, trở ngại tưởng chừng không thể vượt qua nổi, mong ước được trở về Nước cùng đồng bào đấu tranh của Bác Hồ đã trở thành hiện thực. Bước chân đầu tiên về đất Mẹ, là giây phút thiêng liêng khó diễn đạt bằng lời, Người như lặng đi bên cột mốc 108 biên giới Việt - Trung, mặt hướng về Tổ quốc, ngắm nhìn núi rừng trùng điệp Cao Bằng - mảnh đất địa đầu của Tổ quốc, rồi Người cúi xuống cầm nắm đất Tổ quốc lên hôn mà đôi mắt rưng rưng, tiếng lòng như thẳm sâu lắng đọng, cảm nhận sự sống của “hình Đất nước” đang phôi thai trong lòng mình, hình ảnh của một đất nước Việt Nam mới tươi sáng:
Kìa, bóng Bác hôn lên hòn đất
Lắng nghe trong màu hồng, hình Đất nước phôi thai
Những vần thơ xúc động nhưng giản dị đã cho ta cảm nhận thấy phong cách gần gũi, vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt hành trình 30 năm tìm đường cứu Nước. Có thể nói “Người đi tìm hình của Nước” đã diễn đạt lòng yêu nước vô cùng sâu nặng của Bác Hồ, đồng thời để lại cho các thế hệ Việt Nam một trong những bài thơ hay nhất, thành công nhất viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đã 109 năm trôi qua kể từ ngày người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu Nước với một quyết tâm cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu” nhưng ý nghĩa lịch sử sâu sắc của sự kiện ngày 5/6/1911 vẫn luôn sáng mãi trong tâm thức của hàng triệu trái tim Việt Nam và bạn bè quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh với trái tim yêu Nước nồng nàn đã đánh đổi tuổi trẻ, thanh xuân của mình để giành lấy mùa Xuân cho dân tộc, Người đã mở rộng cánh cửa để cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới, để cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam là một bộ phận đấu tranh của nhân loại tiến bộ vì hòa bình và những giá trị nhân đạo./.
Huyền Trang