Năm 2019 đánh dấu 25 năm ngày Công ước quốc tế của Liên Hợp Quốc về Luật
Biển năm 1982 (UNCLOS) chính thức có hiệu lực và 25 năm Việt Nam phê chuẩn
UNCLOS. Việc Việt Nam tích cực tham gia và thực thi UNCLOS thể hiện thiện chí,
sự coi trọng và kỳ vọng của Việt Nam vào trật tự pháp lý công bằng về biển.
Năm 2019 đánh dấu 25 năm ngày
Công ước quốc tế của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) chính thức có
hiệu lực và 25 năm Việt Nam phê chuẩn UNCLOS.
Việc Việt Nam tích cực tham gia
và thực thi UNCLOS thể hiện thiện chí, sự coi trọng và kỳ vọng của Việt Nam vào
trật tự pháp lý công bằng về biển. Nghị quyết ngày 23-6-1994 của Quốc hội về việc
phê chuẩn UNCLOS nêu rõ: “Bằng việc phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật
Biển 1982, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam biểu thị quyết tâm cùng cộng
đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng, khuyến khích sự phát triển
và hợp tác trên biển”.
UNCLOS là khuôn khổ pháp lý toàn
diện về biển và đại dương
1. UNCLOS bao gồm các quy định toàn diện xác lập các vùng biển, điều
chỉnh mọi hoạt động trên biển và đại dương ở cấp độ quốc gia, khu vực và toàn cầu.
UNCLOS có giá trị cao hơn so với các Công ước và hiệp định/ thỏa thuận quốc tế
khác, và các nguồn khác của luật quốc tế trong đó có luật tập quán quốc tế về
biển.
UNCLOS nêu rõ: hiệp định/ thỏa
thuận giữa hai hay nhiều quốc gia thành viên UNCLOS về bất kỳ vấn đề nào được
quy định tại UNCLOS thì phải phù hợp với UNCLOS; chỉ có các quyền, nghĩa vụ
hình thành từ các quy tắc của pháp luật quốc tế không trái với UNCLOS là được
công nhận và áp dụng bởi toà án hay toà trọng tài có thẩm quyền theo Phần XV
Công ước.
2. Việc giải thích theo hướng UNCLOS không phải là khuôn khổ pháp
lý duy nhất và còn có các khuôn khổ khác như luật tập quán quốc tế hình thành
trước UNCLOS điều chỉnh các vấn đề về biển là đi ngược lại với mục tiêu của
UNCLOS, nhằm hạ thấp giá trị của UNCLOS. Do có tầm quan trọng chiến lược, tính
thống nhất, toàn vẹn của UNCLOS cần tiếp tục được duy trì.
UNCLOS quy định rõ quy chế pháp
lý của các vùng biển, quyền và nghĩa vụ của các quốc gia
3. UNCLOS là cơ sở để xác lập phạm vi các vùng biển thuộc chủ quyền,
quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia ven biển, kể cả quốc gia quần đảo (gồm
nội thuỷ, vùng nước quần đảo của quốc gia quần đảo, lãnh hải, vùng tiếp giáp,
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa); các vùng biển ngoài phạm vi tài phán
quốc gia (gồm Biển cả hay còn gọi là biển quốc tế, Vùng đáy biển quốc tế và tài
nguyên khoáng sản ở đó là di sản chung của nhân loại). UNCLOS còn quy định cụ
thể quyền và nghĩa vụ của các quốc gia.
Theo UNCLOS, mọi hoạt động liên
quan đến thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên tại vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa của quốc gia ven biển phải được phép của quốc gia đó; mọi hoạt
động không được cấp phép đều là bất hợp pháp, vi phạm một cách rõ ràng các quy
định của Công ước.
Điều 121 UNCLOS quy định tiêu chí
xác định “đảo” là vùng đất tự nhiên có nước bao bọc và luôn ở trên mặt nước khi
thuỷ triều lên; các đảo có khả năng duy trì điều kiện cho con người đến ở và có
đời sống kinh tế riêng thì sẽ có đầy đủ các vùng lãnh hải, tiếp giáp, đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa như lãnh thổ đất liền. Các đá không có đáp ứng hai điều
kiện nêu trên thì chỉ có lãnh hải 12 hải lý, không vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa.
Các bãi cạn lúc nổi, lúc chìm nói
chung không có lãnh hải riêng (và do đó cũng không có vùng đặc quyền về kinh tế
và thềm lục địa) và sự có mặt của chúng
không ảnh hưởng đến việc xác định ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế
hay thềm lục địa.
Căn cứ quy chế đảo tại UNCLOS,
trong một vụ gần đây Tòa trọng tài theo Phụ lục VII UNCLOS đã kết luận, không một
cấu trúc địa lý nào tại quần đảo Trường Sa có khả năng tạo ra vùng biển ĐQKT,
thềm lục địa; các đảo của quần đảo Trường Sa không thể cùng nhau tạo ra các
vùng biển như một thực thể thống nhất.
UNCLOS thiết lập các cơ quan, cơ
chế để bảo đảm thực thi Công ước, trong đó có cơ chế giải quyết tranh chấp về
giải thích và áp dụng Công ước
4. Để bảo đảm thực thi Công ước đầy đủ và nhất quán, UNCLOS thành lập
các cơ quan, cơ chế với vai trò và chức năng khác nhau, có tính chất bổ sung
cho nhau. UNCLOS cũng quy định cơ chế giải quyết tranh chấp trong việc giải
thích và áp dụng Công ước (Phần XV), bao gồm các tiến trình ngoại giao và pháp
lý. Khi có tranh chấp, các quốc gia thành viên có nghĩa vụ nhanh chóng trao đổi
quan điểm về giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán hoặc các biện pháp hòa
bình khác.
Nếu việc trao đổi, đàm phán trong
một thời gian hợp lý không đạt được giải pháp, các bên có thể thỏa thuận đưa
tranh chấp ra giải quyết tại cơ quan tài phán quốc tế để có phán quyết ràng buộc,
đó là Tòa án Công lý quốc tế (ICJ), Tòa án Luật Biển quốc tế (ITLOS - được
thành lập theo Phụ lục VI của UNCLOS) hoặc Tòa trọng tài (theo Phụ lục VII
UNCLOS), Tòa trọng tài đặc biệt (theo Phụ lục VIII UNCLOS). Tranh chấp nếu
không được giải quyết thông qua trao đổi, đàm phán trong thời gian hợp lý thì
có thể đưa ra cơ chế bắt buộc – Tòa trọng tài theo Phụ lục VII UNCLOS (với những
điều kiện nhất định), hoặc đưa ra Uỷ ban hòa giải (được thành lập theo Phụ lục
V của UNCLOS), trên cơ sở các khuyến nghị của Uỷ ban hòa giải tuy không có giá
trị ràng buộc pháp lý, các bên tranh chấp có nghĩa vụ phải đàm phán để đạt giải
pháp giải quyết tranh chấp, và nếu không đàm phán được, các bên có nghĩa vụ giải
quyết thông qua cơ quan tài phán.
Phán quyết của các cơ quan tài
phán theo quy định của UNCLOS góp phần giải thích đúng đắn các quy định của
UNCLOS, làm rõ một số vấn đề còn chưa rõ hoặc gây tranh cãi, hoặc yêu sách và
hành động trái với quy định của UNCLOS.
Hiệu quả thực thi UNCLOS, cũng giống
như việc thực thi các điều ước quốc tế khác, trên thực tế không chỉ thể hiện ở
quan điểm của quốc gia tại các diễn đàn khu vực và quốc tế thảo luận về biển mà
phụ thuộc vào hành động của mỗi quốc gia thành viên trong việc sử dụng biển, đại
dương và các tài nguyên biển, đòi hỏi thiện chí và quan tâm đúng mức của mỗi quốc
gia.
5. Là quốc gia ven biển, thành viên của UNCLOS, Việt Nam đã và đang
nỗ lực kiên trì giải quyết một cách hòa bình các vấn đề Biển Đông, phù hợp với
luật pháp quốc tế trong đó có UNCLOS. Việt Nam đồng thời đã và đang thực thi đầy
đủ UNCLOS kể từ khi chấp nhận sự ràng buộc của UNCLOS và trở thành một quốc gia
thành viên của UNCLOS 25 năm trước, nỗ lực thực hiện bảo tồn biển và đại dương
và các nguồn lợi biển một cách bền vững, phù hợp với các tiêu chí của Mục tiêu
phát triển bền vững số 14 về bảo tồn và sử dụng bền vững biển, đại dương và tài
nguyên biển (SDG14) thuộc Chương trình nghị sự 2030 của LHQ. Việt Nam cần tiếp
tục nỗ lực cùng với các nước thành viên khác thúc đẩy tôn trọng UNCLOS, đồng thời
bảo vệ tính toàn vẹn và giá trị pháp lý của khuôn khổ pháp lý toàn cầu này.
TS Lê Thị Tuyết Mai