Cứ vào dịp 30/4, bên cạnh những hoạt động
tri ân, biết ơn với lớp lớp thế hệ người con ưu tú của dân tộc đã hy sinh cuộc
đời và tuổi thanh xuân của mình cho nền độc lập tự do của Tổ quốc, là những hoạt
động chống phá điên cuồng, quyết liệt của các thế lực phản động, cơ hội chính
trị trong và ngoài nước. Tiêu biểu trong các đối tượng trên đây là Ngọc Ẩn với
bài viết “miền Nam giải phóng cộng sản bắc việt”. Nội dung bài viết là những luận
điệu cố tình xuyên tạc, phủ nhận những hy sinh xương máu của nhân dân hai miền
Nam - Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc; cho rằng, nhân
dân miền Bắc cướp quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do bầu cử, tự do ứng
cử của nhân dân miền Nam và cả nước, để từ đây “ngày 30/4/1975 là ngày giải
phóng miền Bắc”. Vậy đâu là sự thật, luận điệu trên được luận giải ở những khía
cạnh chủ yếu sau.
Thứ nhất, cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta là cuộc chiến tranh chính nghĩa, nhằm đánh
đuổi đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống
nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Sự thật lịch sử của chiến thắng 30/4/1975
là điều không thể phủ nhận. Có chăng chúng ta làm rõ vấn đề này để thêm tự hào
về Đảng ta, nhân dân ta và dân tộc ta; đồng thời, vạch mặt những kẻ bán nước cầu
vinh, phản bội Tổ quốc, cố tình phá hoại sự phát triển của đất nước, của cách mạng
Việt Nam từ sau năm 1954. Với âm mưu xóa bỏ chế độ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
đế quốc Mỹ đã nhảy vào xâm chiếm nước ta, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa
kiểu mới, phục vụ cho mưu đồ sen đầm khu vực. Mỹ đã đưa vào đây hơn nửa triệu
quân và sử dụng tất cả các loại vũ khí, kỹ thuật hiện đại nhất, kể cả vũ khí
hóa học với mưu toan đè bẹp ý chí chiến đấu của dân tộc ta hòng buộc
chúng ta phải khuất phục. Điển hình của sự thảm khốc, tàn bạo đó là quân
đội Mỹ đã dùng pháo đài bay B.52, ném bom hủy diệt Hà Nội và một số
thành phố khác, hòng “đưa miền Bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá”; “Cây
muốn lặng, mà gió chẳng muốn ngừng”, như thế thử hỏi có phải bắc Việt Nam đem
quân vào xâm chiếm miền Nam, cướp chính quyền của nhân dân miền Nam? Rõ ràng, sự
thật lịch sử ở đây là không phải như vậy, chính đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn
đã tráo trở, trắng trợn gắp lửa bỏ tay người, đi ngược lại với những điều khoản
đã ký trong Hiệp định Giơnevơ là hai miền Nam - Bắc sẽ tiến hành cuộc tổng tuyển
cử thống nhất đất nước vào năm 1956.
Trái với nguyện vọng thiết tha hòa
bình, khát vọng hạnh phúc của nhân dân ta, đế quốc Mỹ và chính quyền Sài
Gòn đã từng bước vi phạm Hiệp định, dựng lên chính quyền tay sai bù nhìn, lê
máy chém khắp miền Nam, biến miền Nam Việt Nam thành nhà tù khổng lồ, chia cắt
đất nước ta thành hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Vì độc
lập, tự do của Tổ quốc, vì sự tồn vong của dân tộc buộc toàn thể nhân dân
Việt Nam phải cầm súng chiến đấu chống quân xâm lược. Với chân lý “Không
có gì quí hơn độc lập, tự do”, “Nam - Bắc một nhà”, “miền Nam là máu của máu Việt
Nam, là thịt của thịt Việt Nam”; “sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý
ấy không bao giờ thay đổi”… Dưới sự lãnh đạo tài tình, đúng đắn, sáng tạo của Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta ở cả hai miền Nam, Bắc đã đồng tâm, hiệp lực,
không ngại hy sinh, gian khổ, đoàn kết chiến đấu chống lại cuộc chiến tranh phi
nghĩa, tàn bạo của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giành thắng lợi với mốc son
chói lọi là Đại thắng Mùa xuân 30/4/1975, thu non sông đất nước về một mối, đáp
ứng yêu cầu, nguyện vọng của cả dân tộc.
Thứ hai, nhân dân miền Bắc
đã làm tròn vai trò sứ mệnh lịch sử của mình là căn cứ địa cách mạng của cả nước,
chi viện sức người, sức của đầy đủ, kịp thời cho tiền tuyến lớn miền Nam.
Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (tháng 12/1965) khẳng định, thành tựu của hơn 10 năm khắc phục hậu quả
của chiến tranh, cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội: “Miền Bắc đã trở thành căn cứ địa vững chắc
cho cách mạng Việt Nam trong cả nước, với một chế độ chính trị ưu việt, với lực
lượng kinh tế và quốc phòng lớn mạnh”. Quán triệt tinh thần đó, nhân dân miền
Bắc đã tích cực, chủ động với tinh thần “một
ngày làm việc bằng hai”, “tiền tuyến
gọi, hậu phương đáp”, “thóc không thiếu
một cân quân không thiếu một người”; vì miền Nam ruột thịt, nhân dân miền Bắc
sẵn sàng đáp ứng đầy đủ những nhu cầu về vật chất và tinh thần cho cuộc kháng
chiến trường kỳ lâu dài nhưng nhất định thắng lợi. Vì vậy, trong suốt 21 năm
chiến tranh, miền Bắc đã chi viện liên tục, toàn diện với nhịp độ ngày càng
tăng, đáp ứng đòi hỏi của chiến trường miền Nam, cách mạng miền Nam. Trong vòng
10 năm (từ năm 1965 đến 1975), miền Bắc đã động viên hàng triệu lao động, chủ yếu
là thanh niên trẻ, khỏe, ưu tú để bổ sung, mở rộng lực lượng vũ trang và phục vụ
chiến đấu. Trong thời gian diễn ra những cuộc tiến công chiến lược (1968, 1972,
1975), nhân lực động viên ở miền Bắc phục vụ nhu cầu chiến tranh tăng gấp 4 đến
5 lần so với trước. Không tính số quân bảo vệ miền Bắc, làm lực lượng dự bị chiến
lược, chiến đấu và công tác trên tuyến vận tải 559, chỉ tính riêng số quân đưa
vào miền Nam trong các năm kể trên như sau: năm 1968 là 141.000 người, năm 1972
xấp xỉ 153.000 người, năm 1975 là 117.000 người. Ngoài lực lượng trực tiếp chiến
đấu, các lực lượng vận tải, bảo đảm giao thông, mở đường và các lực lượng bảo đảm
khác gồm hàng chục vạn người cũng được động viên từ miền Bắc. Như vậy, có thể
thấy cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước không còn là nhiệm vụ của riêng mỗi miền
mà đó là nhiệm vụ chung của cả dân tộc, của khối đại đoàn kết toàn dân và cũng
bác bỏ hoàn toàn luận điệu xuyên tạc bỉ ổi vô căn cứ của Ngọc Ẩn; đồng thời, khẳng
định vai trò to lớn của nhân dân miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước của dân tộc.
Với lương tâm và trách nhiệm của một công
dân Việt Nam, ai cũng có quyền tự hào về sự anh dũng hy sinh của những anh hùng
liệt sĩ cho nền độc lập, tự do của Tổ quốc, nhận thấy bổn phận, nghĩa vụ của
mình trong việc giữ gìn, phát huy truyền thống lịch sử đó. Đối với những ai
không hiểu, hoặc cố tình không hiểu, tìm mọi cách để xuyên tạc, phủ nhận thì sẽ
bị chính thực tiễn lịch sử đáp trả, bằng những thành tựu của đất nước sau 44 giải
phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Bản án lương tâm của chính những
kẻ phản bội lại dân tộc sẽ phán xét một cách công bằng, đầy đủ và chính xác cho
sự nhẹ dạ cả tin đi theo hào nhoáng, lợi ích vật chất do các phần tử phản động
đặt ra./.